Connect with us

Xuất Bản

Cơ sở pháp lý để xác lập các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam

Được phát hành

,

Năm 1982, 117 đoàn đại diện cho các nước, trong đó có Việt Nam, đã chính thức ký kết Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Tháng 11/1996, Công ước có hiệu lực.

Sách Dấu ấn Việt Nam trên biển Đông (TS Trần Công Trục chủ biên) góp phần tuyên truyền sâu rộng những thông tin chính xác đến mọi tầng lớp nhân dân, đồng thời khẳng định những quan điểm đúng đắn, khách quan của Nhà nước Việt Nam đối với các vấn đề tranh chấp, trong quyết tâm bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của mình trên Biển Đông.

Được sự đồng ý của NXB Thông tin và Truyền thông, Zing trích đăng một phần nội dung cuốn sách này.

Các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia là bộ phận cấu thành, không thể thiếu được của bất kỳ quốc gia ven biển nào. Nó gắn liền những lợi ích về chính trị, kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng của quốc gia ven biển.

Do đó, các vùng biển và thềm lục địa của quốc gia là phạm vi không gian và nền tảng vật chất cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia ven biển; đồng thời nó còn liên quan các vùng biển của các quốc gia khác, trước hết là các quốc gia láng giềng hoặc các quốc gia trong khu vực.

Lịch sử của Luật Biển

Các vùng biển và thềm lục địa của quốc gia ven biển không chỉ đặc biệt quan trọng đối với mọi quốc gia ven biển mà còn có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ quốc tế nói chung.

Trong lịch sử từ trước đến nay, vấn đề xác định phạm vi các vùng biển luôn luôn là vấn đề quan trọng và là đề tài phong phú, phức tạp của nhiều diễn đàn quốc tế.

Co so phap ly de xac lap cac vung bien va them luc dia Viet Nam hinh anh 1 VN_tren_Bien_Dong.jpg

Bìa sách Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông của NXB Thông tin và Truyền thông.

Trong nhiều trường hợp, các tranh chấp về ranh giới các vùng biển giữa các quốc gia hữu quan cũng đã diễn ra khá gay gắt và có khi là nguyên nhân hoặc nguồn gốc của nhiều cuộc chiến tranh ở các qui mô khác nhau giữa các quốc gia.

Sự hình thành và phát triển các vùng biển của quốc gia ven biển gắn liền và được xác định với sự hình thành và phát triển của luật pháp quốc gia và quốc tế về biển trong quá trình lịch sử khai thác và sử dụng biển của nhân loại.

Từ khi xuất hiện quốc gia, các nước ven biển luôn luôn có xu hướng mở rộng quyền lực của mình ra hướng biển. Đồng thời, một số cường quốc biển lại muốn duy trì quyền tự do hoạt động trên biển để khai thác tài nguyên và chinh phục thuộc địa.

Trong quá trình đấu tranh đó, xuất hiện các nguyên tắc, quy định điều chỉnh các mối quan hệ và lợi ích của các quốc gia khác nhau trên biển, tạo thành cơ sở cho luật pháp quốc tế về biển.

Ngay từ thời xa xưa, người Phênixi và người Hy Lạp ở Địa Trung Hải đã thừa nhận sự cần thiết phải bảo vệ một dải biển ven bờ.

Vào thế kỷ thứ XV, hai quốc gia biển hùng mạnh là Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha kình địch nhau dữ dội trên biển và Giáo hoàng Alexander VI đã ra sắc chỉ Inter Coetera ngày 4/5/1493, chia đại dương làm hai khu vực ảnh hưởng cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha; thực chất đó là đường phân chia khu vực truyền đạo, nhưng hai quốc gia này đã nhanh chóng chuyển thành khu vực ảnh hưởng của họ.

Ngày 7/6/1494, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã ký Hiệp ước Torđesillas phân chia vùng biển, đường chia dịch cách đường của Giáo hoàng Alecxanđơrơ VI 37 độ lệch về phía ngoài đảo Cap Vert.

Phải một thế kỷ sau (thế kỷ thứ XVI), quyền thống trị các con đường biển và đại dương của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mới gặp phải thử thách thật sự bởi sự nổi lên của Hà Lan, với tư cách là một cường quốc hàng hải, thương mại mới. Đây chính là thời điểm lịch sử bắt đầu sự phát triển một cách có hệ thống luật biển thế giới.

Hung Grôttiut – một luật gia nổi tiếng của Hà Lan, đã có tác phẩm “Mare Liberum” – “Tự do biển cả” (năm 1609) và Deive Bekku Ac Pacis – “Luật chiến tranh và hoà bình” (năm 1625).

Trong đó, ông bảo vệ quyền của mọi người được buôn bán, bác bỏ quyền của Bồ Đào Nha đối với Ấn Độ, cũng như với biển theo sắc lệnh của Giáo Hoàng và cho rằng biển và đại dương được tạo nên cho loài người sử dụng theo luật của tạo hoá, biển và đại dương phải được tự do để hàng hải, không ai có thể có một danh nghĩa nào đối với đại dương vì đại đương không thể nào bị chiếm hữu.

Như vậy là từ những ngày đầu tiên của Luật Biển và quan hệ quốc tế trên biển, người ta đã thấy cả hai khuynh hướng bảo vệ tự do đi lại và thương mại trên biển cả, đồng thời với khái niệm một quốc gia ven biển có thể mở rộng quyền tài phán quốc gia ra một dải biển hẹp giống như trên đất liền – chính xác là trên một giới hạn biển mà sức mạnh của quốc gia đó cho phép.

Co so phap ly de xac lap cac vung bien va them luc dia Viet Nam hinh anh 2 Unclos1_9.8.jpg

Phiên họp thứ 3 của Hội nghị Luật Biển lần thứ 3 của Liên Hợp Quốc khai mạc ngày 18/3/1975. Ảnh: UN.

Năm 1702, một luật gia Hà Lan khác, ông Van Bynkershoeckd, đã đưa ra ý kiến rằng “quyền lực quốc gia chấm dứt tại nơi sức mạnh vũ khí của quốc gia đã chấm dứt”.

Sau đó, năm 1782, ông F.Ga1iani người Italy đã liên kết tầm bắn của súng thần công thời đó là 3 hải lý với bề rộng của dải biển ven bờ mà quốc gia ven biển có thể mở rộng chủ quyền.

Vào thế kỷ XIX, nguyên tắc 3 hải lý đã được nước Anh – cường quốc hàng hải mạnh nhất đương thời chấp nhận và áp dụng.

Ngoài quy định về lãnh hải 3 hải lý, gần như tất cả quốc gia, vào lúc này hay lúc khác, lại bắt đầu thi hành quyền kiểm soát hoặc có ý định thi hành quyền kiểm soát rộng hơn ra vùng tiếp giáp nằm ngoài lãnh hải nhằm mục đích an ninh, bao gồm chống buôn lậu, bệnh dịch, đánh bắt trộm hải sản.

Cuối thế kỷ thứ XIX, Viện Luật quốc tế Paris cho rằng nguyên tắc lãnh hải 3 hải lý thông thường được chấp nhận trước đây là không đủ để bảo vệ nghề cá của quốc gia ven biển.

Việc qua lại các eo biển quốc tế cũng là vấn đề gay cấn. Trên thực tế, nhiều nước có các quy định khác nhau về bề rộng lãnh hải (4 và 6 hải lý) và phạm vi bảo vệ nghề cá.

Sau chiến tranh thế giới thứ I (năm 1930), Hội Quốc liên lần đầu tiên triệu tập Hội nghị pháp điển hoá luật quốc tế tại LaHay.

Trong hội nghị này, người ta thừa nhận chủ quyền của quốc gia ven biển đối với lãnh hải và quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải, nhưng không thống nhất được về chiều rộng lãnh hải.

Năm 1942, Anh phải ký kết với Vênêzuêla chia vịnh Pariát (lúc đó do Anh kiểm soát) tạo ra tiền lệ đầu tiên về việc phân chia đáy biển.

Sau chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ khẳng định các quyền bảo vệ nghề cá của mình đối với các vùng biển ngoài lãnh hải, đặc biệt “Tuyên bố Tơruman” (năm 1945) của Mỹ đã khẳng định chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của thềm lục địa của mình.

Tuyên bố không đề cập cụ thể đến giới hạn của thềm lục địa, nhưng lúc đó được hiểu là ra đến độ sâu 200 mét nước. Nhiều nước đã nhanh chóng theo chân Mỹ tuyên bố chủ quyền đối với tài nguyên thềm lục địa tạo ra một vấn đề mới của Luật Biển quốc tế.

Tuy nhiên, có một số nước như Peru, Chile và Ecuador, không có thềm lục địa và rất quan tâm nguồn tài nguyên biển chủ yếu của họ là cá, lại đòi hỏi chủ quyền đối với một vùng biển rộng tới 200 hải lý.

Để giải quyết những vấn đề trên, năm 1958, Liên Hợp Quốc đã triệu tập Hội nghị Luật Biển lần thứ I tại Giơnevơ với 86 nước tham dự.

Kết quả là hội nghị đã thông qua được 4 công ước quốc tế về luật biển: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp, Công ước về đánh cá và bảo tồn tài nguyên sinh vật, Công ước về thềm lục địa, Công ước về biển cả.

Tại hội nghị, các cường quốc biển như Anh, Mỹ đều không muốn thay đổi chiều rộng lãnh hải 3 hải lý, nên mặc dù các công ước đã đưa ra được những quy định về thiết lập đường cơ sở thẳng, về lãnh hải, vùng tiếp giáp để kiểm soát hải quan thuế khoá, nhập cư, vệ sinh dịch tễ và quyền đi qua không gây hại…

Nhưng một số vấn đề cơ bản vẫn chưa được giải quyết. Đó là việc thống nhất về chiều rộng lãnh hải, quyền đi qua các eo biển quốc tế, các giới hạn vùng đánh cá và ranh giới ngoài của thềm lục địa. Liên Hợp Quốc đã phải triệu tập Hội nghị Luật Biển lần thứ II vào năm 1960 cũng tại Giơnevơ để giải quyết các tồn tại này.

Một số nước đề nghị quy định bề rộng lãnh hải là 12 hải lý, Mỹ và Canada đề nghị quy định lãnh hải 6 hải lý, vùng đánh cá 6 hải lý. Cuối cùng, hội nghị này không đạt được thỏa thuận quốc tế nào.

Công ước mới của Liên Hợp Quốc về Luật Biển

Do sự phát triển vượt bậc của khoa học – kỹ thuật, các hoạt động mọi mặt trên biển đã được triển khai một cách mạnh mẽ, rộng rãi, quy mô ngày càng lớn. Tình hình đó đòi hỏi phải có Hội nghị quốc tế mới về Luật Biển và Liên Hợp Quốc đã đứng ra tổ chức Hội nghị quốc tế quan trọng này.

Sau 5 năm trù bị (1967-1972) và qua 9 năm thương lượng (1973 – 1982) với 11 khoá họp, Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Luật Biển lần thứ III đã thông qua một Công ước mới của Liên hợp quốc về Luật Biển ngày 30/4/1982 với tỷ lệ 130 phiếu thuận, 4 phiếu chống, 17 phiếu trắng và 2 nước không tham gia bỏ phiếu.

Sau đó, ngày 10/12/1982, 117 đoàn đại diện cho các nước trong đó có Việt Nam đã chính thức ký kết Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Đến tháng 11/1996, 108 nước phê chuẩn, Công ước đã có hiệu lực từ ngày 16/11/1994.

Co so phap ly de xac lap cac vung bien va them luc dia Viet Nam hinh anh 3 1312345678910111213.jpg

Đại diện các quốc gia tham gia ký Công ước Luật Biển năm 1982. Ảnh: UN.

Công ước được xây dựng theo nguyên tắc “cả gói” bao hàm tất cả các khía cạnh liên quan Luật Biển và được các quốc gia chấp nhận theo nguyên tắc “nhất trí” (consensus – không có phản đối), không được bảo lưu đối với từng nội dung riêng biệt quy định trong Công ước.

Công ước mới về Luật Biển năm 1982 bao gồm 17 phần với 320 điều khoản, 9 phụ lục với hơn 100 điều khoản và 4 nghị quyết kèm theo, chứa đựng khoảng 1.000 quy phạm luật pháp quốc tế.

Đây là một văn kiện quốc tế tổng hợp toàn diện, bao quát được tất cả những vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển và đại dương thế giới, xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mọi loại quốc gia (có biển cũng như không có biển, phát triển hay đang phát triển…) về nhiều mặt như an ninh, bảo vệ môi trường, khai thác tài nguyên, giao thông và liên lạc nghiên cứu khoa học và công nghệ… đối với các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia cũng như đối với những vùng biển ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia.

Công ước cũng đã định ra trình tự và thủ tục giải quyết các tranh chấp trên biển giữa các quốc gia bằng biện pháp hoà bình và thông qua cơ quan tài phán của Liên hợp quốc.

Trong quá trình Hội nghị lần thứ III của Liên Hợp Quốc về Luật Biển, nắm bắt được xu thế tiến bộ chung, ngày 12/5//1977, sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chuẩn y, Chính phủ ta đã ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đây là một trong những tuyên bố sớm nhất theo tinh thần Công ước ở trong khu vực Đông Nam Á. Tuyên bố của ta hoàn toàn phù hợp với các quy định của Công ước và có hiệu lực cho đến nay.

Từ sau Tuyên bố lịch sử đó của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Việt Nam đã xác định về nguyên tắc phạm vi của các vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa.

(Còn tiếp)

Nguồn: Zing (https://news.zing.vn/co-so-phap-ly-de-xac-lap-cac-vung-bien-va-them-luc-dia-viet-nam-post1081119.html)

Xuất Bản

Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự

Được phát hành

,

Bởi

Nhà văn là nhân chứng sáng suốt, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống.

Le Minh Khue anh 1

Nhà văn được giải Nobel Svetlana Alexievich và nhà văn Lê Minh Khuê tại liên hoan.

Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Văn chương hòa bình ở thành phố sách Pazu

Từ nhiều năm nay, có rất nhiều cuộc gặp gỡ văn chương được Hàn Quốc tổ chức, quy tụ nhiều nhà văn ở các nước đến để dự liên hoan và hội nghị về các vấn đề lớn. Các nhà văn thường đại diện cho những vùng đất ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin. Ít khi có khuôn mặt đại diện của châu Âu và Bắc Mỹ. Giáo sư Kim Jae Yong, người trong ban tổ chức các hội thảo nói với tôi: “Tôi thích đại biểu của châu Á, châu Phi và Mỹ Latin”.

Năm 2008, tôi được dự hội nghị có hàng trăm nhà văn nhiều màu da. Những cuộc gặp gỡ, những ý kiến khác nhau, nhiều tiếng nói của các miền đất. Nhưng cũng giống như các hội nghị trên thế giới, không ai biết người đang đối thoại của mình từng viết gì. Vui vẻ như vậy, và cũng biết là đã đến các cuộc gặp gỡ này thì ai cũng có “thành tựu” nào đấy, nhưng chẳng ai biết rõ về ai, cuộc sống, tài năng, công việc hàng ngày… Mà có lẽ như thế lại hay.

Nhìn thấy nhau đột nhiên thấy quý mến vì nụ cười, vì màu da, vì xa cách địa lý nhưng cũng có một công việc và cũng có sự quan tâm sâu sắc tới cuộc sống của đất nước mình.

Cuối tháng 11/2023, tôi được mời đến Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ (De-military Zone) do Quỹ văn hóa tỉnh Gyeong-gi chủ trì. Gyeong-gi là tỉnh lớn, một đơn vị hành chính rất quan trọng của Hàn Quốc, có 13 triệu dân, ở ngay cạnh Thủ đô Seoul. Liên hoan tổ chức ở thành phố xuất bản Pazu, nơi chỉ có các nhà xuất bản, và chỉ sách là sách. Khi nhận lời mời tôi nghĩ chắc liên hoan sẽ đặt trọng tâm vào vấn đề về chiến tranh. Chiến sự Nga – Ukraine đang ác liệt. Và từ mấy hôm trước chiến sự ở dải Gaza đang làm cả thế giới thấy bất an.

Đến dự liên hoan, người đầu tiên tôi chú ý nhìn là nhà văn Adania Shibli đến từ Palestine, một người phụ nữ gầy gò, khuôn mặt thông minh nhưng trông có gì đó như thảng thốt. Quê hương của cô ở dải Gaza đang hứng chịu bom đạn chết chóc, trẻ con chết hàng ngày. Tôi bắt tay cô, không nói với nhau được gì nhưng có vẻ cô thấu hiểu tình cảm của người chia sẻ.

Liên hoan có 12 tác giả nước ngoài và 38 tác giả Hàn Quốc, toàn người rất nổi tiếng. Sáu nhà văn trong ban tổ chức là các giáo sư kiêm tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà thơ. Giáo sư Kim Jae Yong rất bận rộn. Ông có những giờ giảng bài ở các trường đại học nên khi đến muộn, ông bắt tay tôi rất chặt. Chúng tôi quen nhau từ năm 2008 và khi tôi tới Hadong nhận giải thưởng văn học quốc tế mang tên văn hào Byeong-ju Lee, ở xa ông đã gọi điện chúc mừng.

Các nhà văn đến từ Nigeria, Ấn Độ, Tunisia, Peru, từ Đài Loan (Trung Quốc), Philippines, Nhật Bản đều ở độ tuổi từ 50 đến 70. Nhà văn da đen Niyi Osundare là người gốc Nigeria nhưng là công dân Mỹ, sống ở bang Louisiana. Ông cười cởi mở, thân thiện với tôi và hát một bài hát gì đó mà điệp khúc nhắc đi nhắc lại Việt Nam… Việt Nam. Ông hát say sưa và bảo với tôi: Đấy, người dân châu Phi rất yêu quý Việt Nam. Ông cùng tuổi với tôi, có ba người con trai, ông hay khoác tay tôi và bảo: Nào, các ông bà già hãy ngồi xuống! Rồi nhắc đi nhắc lại: Việt Nam – Mọi chuyện đều ổn!

Những khi như vậy lại cứ tiếc là chưa được đọc tác phẩm của họ. Cô gái người Philippines cũng vậy. Xinh đẹp, sinh động, tuổi chỉ hơn 40, cô hỏi tôi: Đột nhiên chị gặp tôi ở Hà Nội thì chị sẽ thế nào? Rồi cười tươi tắn bảo: Tôi sẽ tới Việt Nam!

Tham luận của các nhà văn đều hướng đến những vấn đề ở đất nước họ. Xung đột vùng đất, sắc tộc, cách để tồn tại ở một nơi xa lạ. Tôi nói đến những người mẹ trong chiến tranh Việt Nam. Giáo sư Kim Jae Yong bảo tham luận của tôi rất gần với tiêu chí của hội thảo. Thực ra ở Việt Nam đề tài chiến tranh gắn kết với cuộc đời của nhiều thế hệ, cho đến rất lâu sau chiến tranh vẫn chưa thể ra khỏi vùng đất mà nhà văn đề cập.

Trong bữa sáng ở khách sạn, Priya Basil, nhà văn gốc Ấn Độ hiện sống ở Đức có hỏi tôi: Thế khi tham gia chiến tranh chị sợ ai nhất? Cô ấy hỏi ai chứ không hỏi cái gì. Tôi bảo tôi sợ cái chết. Chị có căm thù người Mỹ không? Không. Lúc ấy thì không. Tôi chỉ sợ hãi. Sợ hãi choán hết tâm trí con người. Còn căm thù thì có. Nó tới dần dần. Qua nhận thức, qua thời gian.

Ở Khu Phi quân sự, biên giới giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên, trong khi đứng bên này nhìn sang phía Bắc Triều Tiên, hôm ấy mù trời, không thấy rõ, chỉ thấy thấp thoáng cánh đồng lúa, nhà văn người Ấn Độ nhìn tôi cười: Việt Nam có hoàn cảnh như thế này lâu không? Tôi bảo hơn hai mươi năm. Anh ấy trầm ngâm: Ừ, cũng phải bao nhiêu xương máu…

Diễn đàn khơi gợi ký ức

Mọi người đều có vẻ cảm thông, chia sẻ với nhau. Nhất là khi lúc này bom đạn đang làm thế giới chao đảo, bất ổn. Các bản tham luận đều nói tới ước mong hòa bình cho các vùng đất. Bản tham luận của nhà văn đoạt giải Nobel nói rất nhiều đến ký ức chiến tranh, khi nước Pháp bị xâm chiếm và đội quân xâm lược có những lúc như muốn lấy lòng người dân. Tên lính Đức đưa cho tác giả, lúc ấy còn bé, mấy thanh sôcôla. Lát sau bà ngoại của ông phải giấu vứt đi, vì sợ bị đầu độc. Ông nói nhiều tới ký ức chiến tranh trong các buổi giao lưu, ông nhắc tới những cuộc đối đầu với quân Đức và ký ức bạo lực hầu như theo ông suốt đời.

Le Minh Khue anh 2

Các nhà văn quốc tế dự Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ Hàn Quốc, tháng 11.2023

Jean-Marie Gustave Le Clézio – một cái tên không xa lạ với độc giả Việt Nam. Tôi đã đọc tiểu thuyết Sa mạc của ông. Đọc các truyện ngắn. Đặc biệt là tiểu thuyết Sa mạc, rất khác với các tiểu thuyết có vẻ hơi nhẹ nhõm bóng bẩy ở một số nhà văn Pháp, tiểu thuyết của ông tràn đầy chi tiết, sự kiện, dày đặc tình huống về đời sống trên sa mạc, rất hấp dẫn và không dễ đọc. Ông là một trong ba nhà văn Pháp nổi tiếng, tiêu biểu, là người đã xuất bản trên 30 tác phẩm.

Le Clézio nhận giải Nobel Văn chương năm 2008. Trong lần đi thăm Khu Phi quân sự DMZ, nơi chia cắt hai miền Triều Tiên, ông ngồi giữa hai người phụ nữ, chắc một người là thư ký. Ông cao dong dỏng, thẳng thớm, rắn rỏi, dù đã ngoài 80. Trông ông rất trẻ. Chắc thời trẻ ông cực kỳ hấp dẫn. Tôi chỉ nói được với ông hai ba câu, nhờ Choi Hana dịch qua tiếng Anh. Tôi nói ở Việt Nam sách của ông nhiều người đọc nhất là thanh niên. Ông bình thản gật đầu. Tôi hỏi ông có đọc một vài nhà văn gốc Việt ở Pháp không. Ông bảo ông biết Linda Lê. Ông hỏi sách của tôi có được dịch ở Pháp không? Không, tôi chỉ được in sách ở Mỹ. Ông bảo sắp tới ông sẽ đi Mỹ, ông sẽ tìm đọc…

Tôi biết đó là điều không thể, vì ông hiếm thời gian, vì đi tìm một cuốn sách in đã lâu là điều không thể. Và vì sự quan tâm đến một nhà văn xa lạ cũng rất không thể. Nhưng tôi cảm động vì cách cư xử lịch sự của ông, nó gây nên thiện cảm, sự ấm áp và trân trọng… Những ngày ở Hàn Quốc, giữa các cuộc hội thảo và tham quan, Le Clézio rất trầm lặng, thậm chí có vẻ xa cách. Cũng không thấy nhà văn của nước nào ngồi trò chuyện với ông ngoài các cuộc hội thảo ông ngồi trên diễn đàn, trả lời vài câu hỏi, bàn tới vấn đề chiến tranh – hòa bình và điều ông nói trong hội thảo cũng như trong bản tham luận làm ta suy nghĩ.

Ông nói đến những bi kịch lớn của lịch sử thế giới, những cuộc chinh phục thuộc địa, sự tàn sát người vô tội ở châu Mỹ da đỏ, buôn bán nô lệ từ châu Phi, các cuộc chiến tranh thế giới… Không điều nào trong số đó bị văn chương ngăn chặn. Có lẽ đó không phải là vai trò của văn chương. Nhà văn không phải là nhà tiên tri hay nhà chính trị. Trên hết họ là nhân chứng… Tác phẩm của họ cộng hưởng, đôi khi khuếch đại những sự kiện xảy ra cùng thời với họ, nhưng chúng không ảnh hưởng đến tiến trình chung…

Người cùng ngồi trên diễn đàn với ông là bà Svetlana Alexievich, nhà văn người Belarus được giải Nobel Văn chương năm 2015. Tôi chú ý khuôn mặt hiền hậu của bà, nhưng cái vẻ không khoan nhượng của bà giống như một đặc điểm của các nhà văn nữ hay quan tâm đến các đề tài khó như chiến tranh, như chính trị và thuyết phục người đọc bằng quan điểm cứng rắn. Tôi chú ý tìm bà ngay từ đầu khi bà đi ra cùng hai cô thư ký. Tôi nói với bà: Tôi là nhà văn Việt Nam. Tôi đã trải qua chiến tranh.

Đôi mắt bà nhìn rất nhanh qua tôi. Như nắm bắt nhanh một ấn tượng. Cái nhìn vừa như muốn quen biết vừa như dò hỏi. Nhưng thiện cảm thì rất rõ. Chúng tôi bắt tay nhau nhưng nói chuyện lại khó. Bà nói tiếng Nga. Phải có một phiên dịch tiếng Anh biết tiếng Nga. Đành chỉ biết cười vậy!

Svetlana Alexievich gây ấn tượng với tôi từ lâu khi tôi đọc quyển Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ của bà. Sách được ông Nguyên Ngọc chuyển ngữ thu hút người đọc Việt Nam hơn vì tác giả và dịch giả cùng trải qua chiến tranh, có sự đồng cảm lớn.

Trong quyển sách của bà có một chi tiết làm tôi xúc động ngay từ lần đọc đầu tiên. Một nhóm nữ du kích bị bọn Đức bắt giam. Những tên Gestapo độc ác. Một người phụ nữ có đứa con nhỏ hơn một tuổi chưa biết nói. Khi bọn lính lôi người mẹ đi, đứa trẻ lần đầu tiên trong đời hét lên: Mẹ!

Quyển sách sắp xuất bản của bà cũng thuộc thể loại văn xuôi phi hư cấu. […]

Rất nhiều câu chuyện Svetlana nói trên diễn đàn. Cuộc chiến đang diễn ra và chuyện của bà thu hút người nghe.

Những tác giả Nobel Văn chương đến Hàn Quốc là một sự kiện. Hội trường đông nghẹt người nghe. Buổi giao lưu quan trọng có vị phó tỉnh trưởng tỉnh Gyeong-gi cầm trịch. Vị quan chức của tỉnh là người rất am hiểu văn chương. Ông dẫn dắt, gợi ý, từ đại biểu đến thính giả đều như hướng về cách gợi mở của ông. Trong dàn người đông đúc khi chụp ảnh lưu niệm, ông nhìn về phía tôi rồi tiến tới hỏi tôi ở đâu. Tôi ở Việt Nam đến! Ông cười rạng rỡ, nói như chúc mừng: Chào Việt Nam!

Nhìn cách đón tiếp trân trọng, sự nể nang của mọi người mới thấy người được giải Nobel cực kỳ hạnh phúc. Những điều ông Le Clézio nói làm tôi vừa tâm đắc vừa lấy lại niềm tin vào công việc mà lâu nay mình đã xem nhẹ. Văn chương đích thực phải được nuôi dưỡng trong môi trường tương xứng. Không khí tinh thần ô nhiễm khiến người viết chán nản, tự rẻ rúng với nghề. Nhà văn ta cũng có nhiều sự đáng bị xem thường, nhưng nếu như cần lấy lại sự tôn trọng thì cần hiểu hơn nữa cái nghề mình theo.

Bởi theo nhà văn đoạt giải Nobel mà tôi gặp, văn chương không giúp ích trực tiếp cho bất kỳ một mặt nào của cuộc sống. Văn chương không ngăn cản được chiến tranh, không ngăn cản được đói nghèo, không làm dịu được sự phẫn nộ của thiên nhiên. Nhưng nhà văn là nhân chứng sáng suốt bậc nhất, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống. Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Nhà văn – có lẽ cũng là người cần thiết.

Nguồn: https://znews.vn/lien-hoan-van-chuong-hoa-binh-o-khu-phi-quan-su-post1453329.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

Những dự án lan tỏa tình yêu sách

Được phát hành

,

Bởi

Không chỉ đầu tư nâng cao chất lượng sách, các đơn vị xuất bản còn tổ chức nhiều hoạt động nhằm lan tỏa tình yêu sách, góp phần xây dựng thói quen đọc.

Du an tang sach anh 1

“Chia sẻ yêu thương – Chào xuân mới” là chương trình Nhà xuất bản (NXB) Phụ nữ Việt Nam phối hợp cùng Ban Quản lý Phố sách Hà Nội và Câu lạc bộ Gia đình người tự kỷ Hà Nội tổ chức trong tuần này với mong muốn đáp ứng mong ước của các gia đình có con tự kỷ là được đưa con ra phố, để con mình vào nhịp sống thường nhật, và có một ngày hội để con được biểu diễn, được xem các tiết mục văn nghệ, được gặp gỡ nhau.

Ngày hội ấy còn là dịp để các phụ huynh và các giáo viên làm việc trong lĩnh vực giáo dục trẻ đặc biệt có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ thông tin, hỗ trợ và động viên nhau.

Đây chỉ là một trong số nhiều hoạt động vì cộng đồng mà NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức thường xuyên trong nhiều năm qua như đưa sách về vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, tặng sách đến các không gian đọc cộng đồng và các không gian đọc do những người khuyết tật quản lý, tổ chức các buổi trò chuyện chuyên đề và trao tặng sách tới các trại giam.

Đại diện NXB cho biết những năm gần đây, trung bình mỗi năm NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức khoảng 50 sự kiện khuyến đọc. Năm 2022, một Quỹ sách Cộng đồng cũng đã được NXB Phụ nữ Việt Nam cho ra mắt, từ đó nhận được sự đồng hành của nhiều cá nhân, tổ chức để có được nhiều chương trình trò chuyện khuyến đọc và tặng sách tới cộng đồng.

Điểm đặc biệt, không chỉ khuyến đọc ở vai trò của một đơn vị xuất bản mà nhiều cán bộ của NXB Phụ nữ Việt Nam cũng luôn mang trong mình một tình yêu với sách và truyền lửa đọc ấy đến xung quanh. Như một cán bộ truyền thông của NXB Phụ nữ Việt Nam đã thành lập Quỹ Khuyến đọc trong nhóm facebook “Mạng lưới cha mẹ” với mong muốn quyên góp sách tặng của nơi có sách tới nơi cần sách, quyên góp tiền ủng hộ mua sách, giá sách, các trang thiết bị liên quan tới việc đọc sách, và góp phần thúc đẩy văn hóa đọc trong cộng đồng.

Hướng tới cộng đồng bằng Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương, năm vừa qua Công ty sách Chibooks hoạt động mạnh mẽ với dự án xây dựng 300 tủ sách thư viện miễn phí vào các trường học trên cả nước, từ tiểu học, THCS, THPT đến các trường cao đẳng, đại học. Đây là dự án đã được triển khai từ năm 2011 đến nay với tổng kinh phí ước tính 12 tỷ đồng nhằm nâng cao ý thức đọc sách trong cộng đồng. Đọc sách để chúng ta thêm hiểu và yêu thương con người, mở rộng cánh cửa tâm hồn ra với thế giới xung quanh. Chibooks mong muốn dự án sẽ lan tỏa ảnh hưởng sâu rộng về ý thức đọc sách đến học sinh từ tiểu học, THCS, gieo mầm tìm hiểu, khát khao khám phá, mở rộng trí tưởng tượng và tri thức cho các em thông qua sách vở.

Dịch giả Nguyễn Lệ Chi, Giám đốc Công ty sách Chibooks, cho biết: “Riêng năm 2023, Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương đã trao tặng 32 tủ sách thư viện với 14.242 bản sách, tổng trị giá trên 1,61 tỷ đồng, trong đó gồm 14 tủ sách thư viện cho các trường học và trao tặng sách tới 18 thư viện cộng đồng, 15 thư viện của 15 nhà văn hóa bản”.

Với hoạt động tặng sách cho học sinh tại các trường học ở những nơi chưa đủ điều kiện để thiết lập tủ sách, chương trình “Sách đến tay em” là một trong những Dự án của Câu lạc bộ Vườn yêu thương Thái Hà được triển khai từ cuối tháng 7/2022. Bên cạnh đó, Thái Hà books cũng tổ chức nhiều chương trình khuyến đọc như “Tết sách”, “Sách đồng hành cùng sinh viên”, “ATM sách miễn phí – phiên bản 2”, “Đổi sách lấy cây – gây quỹ khuyến đọc”…

Omega Plus books chọn hướng đi là hỗ trợ xây dựng tủ sách cộng đồng cho các doanh nhân muốn xây dựng thư viện cho cộng đồng, doanh nghiệp, cho các cá nhân, nhóm muốn xây dựng thư viện cho gia đình, quê hương, dòng họ, thư viện cho bệnh viện hay thư viện cho trường học… Danh mục sách là các tác phẩm kinh điển, nền tảng do Omega Plus books tuyển chọn và xuất bản ở nhiều chủ đề khác nhau từ lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới, chính trị, kinh tế, khoa học vật lý, văn học thiếu nhi, giáo dục, y học, nghệ thuật, âm nhạc…

Với NXB Kim Đồng, hoạt động khuyến đọc và trao tặng sách được tổ chức thường xuyên, liên tục như chương trình “Một triệu cuốn sách cho trẻ em nghèo”, tặng tủ sách cho các trường học ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cho cộng đồng trẻ em nghèo người Việt tại nước ngoài – những nơi còn khó khăn, không có điều kiện tiếp cận với sách vở, tài liệu trong nước; bảo trợ, thường xuyên tặng sách cho các thư viện, không gian đọc.

Mỗi đơn vị chọn một cách làm riêng nhưng điểm chung là đều hướng đến vì cộng đồng, đặc biệt với những cộng đồng còn khó khăn, nhằm mang tri thức đến với lớp trẻ, lan tỏa tình yêu sách và góp phần xây dựng thói quen đọc.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho ZNews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. ZNews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/nhung-du-an-lan-toa-tinh-yeu-sach-post1454645.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

‘Hồn Trương Ba da hàng thịt’ – Một cách tiếp cận thế hệ công chúng mới

Được phát hành

,

Bởi

Kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Tsuyoshi Sugiyama là sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới, song gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực.

Hon Truong Ba anh 1

Đạo diễn người Nhật Bản Tsuyoshi Sugiyama từng gây được dư luận ở Việt Nam với cách xử lý độc đáo hai vở kịch kinh điển Cậu Vanya (Anton Chekhov) và Hedda Gabler (Henrik Ibsen) ở Nhà hát Tuổi Trẻ. Lần này, vẫn với tư duy sân khấu độc đáo đó, anh mang đến cho bản dựng Hồn Trương Ba da hàng thịt nhiều nét lạ.

Một tổng thể những nét lạ

Cái lạ đầu tiên là hóa trang và trang phục. Tất cả nhân vật đều ăn mặc khá hiện đại và có phần được Nhật hóa. Vợ chồng con cái nhà Trương Ba như những người nông dân đâu đó bên nước Nhật. Vợ anh hàng thịt, đặc biệt là đám tiên nữ nhà trời, không khác gì những vũ nữ tân thời trong một màn tạp kỹ (nói như một ông quan thiên đình trong kịch “thiên đình gì mà như cái chợ”, thì ở bản dựng này thiên đình gì mà như sân khấu tạp kỹ). Hai ông quan liêu tùy tiện ở thiên đình là Nam Tào Bắc Đẩu trang phục như công chức, nhưng được phân biệt với người hạ giới bằng cách đội trên đầu cặp sừng trâu và sừng dê, vừa như quỷ sống vừa như đám đầu trâu mặt ngựa.

Các nhân vật phần nhiều mang điểm nhấn hóa trang bôi mặt trắng như kiểu kịch Nô của Nhật, cũng có khi là những vạch vằn vện kiểu tuồng Tàu hoặc thổ dân đâu đó. Hóa trang và phục trang gây không khí Nhật hóa và gợi liên tưởng một câu chuyện dân gian không chỉ riêng một đất nước nào.

Cái lạ nữa là đạo diễn chuyển đổi giới tính cho một số nhân vật. Đế Thích cao cờ không phải là phi giới tính như cách thể hiện của nghệ sĩ Trần Tiến trong bản dựng đầu tiên gần bốn chục năm trước, mà là một… bà, bà tiên Đế Thích.

Lý trưởng bê bối tham nhũng ngày trước là nghệ sĩ Phạm Bằng thì nay là một người đàn bà, một bà có chức có quyền và cũng không hẳn là giới tính nữ. Một số nền văn minh cổ coi thần thánh mang trong mình cùng lúc nhiều giới tính, và kẻ tham nhũng trong kịch này có lẽ cũng đa sắc như vậy.

Đạo diễn dụng công tạo ra những mảng miếng lạ, chẳng hạn trong vở Cậu Vanya, ông để cho nghệ sĩ Lê Khanh và các diễn viên khác lăn lộn trong nhem nhuốc cát bụi. Cát thật. Cát mịt mù trên sân khấu. Còn ở Hồn Trương Ba da hàng thịt, lối sử dụng các nguyên vật liệu làm đạo cụ vẫn còn đó. Cái chậu tiết anh hàng thịt hất văng ra nhuộm đỏ một mảng sân khấu. Cốc nước của bà quyền chức cũng màu máu. Xô nước mà người con dâu hắt vào cái hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt để thức tỉnh phần hồn ông Trương Ba cũng là… nước thật.

Đạo diễn không ngần ngại để cho nước lênh láng trên sàn diễn, mà theo một quan niệm sân khấu nào đó thì không nhiều mỹ cảm. Nhưng chỉ có cách tự lý giải: đó là chủ ý của riêng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama. Các động tác lên thiên đình xuống trần gian của Đế Thích và bà vợ Trương Ba là ước lệ không gian kiểu chiếu chèo nhưng cũng là phép ước lệ của sân khấu dân gian nhiều nước.

Cuộc giằng co giữa thể xác hàng thịt và linh hồn của Trương Ba được cụ thể bằng một vật kết nối như sợi dây thừng, lại cũng như những khúc dồi hoặc dây xúc xích của anh hàng thịt. Ấy vậy, người xem vừa tưởng như có thể kết luận rằng sử dụng ước lệ và biểu tượng là căn tính của đạo diễn thì lại va ngay vào những động tác hình thể quá cụ thể như động chạm cầm nắm sờ soạng. Diễn viên đã làm thật, như có dụng ý bác bỏ ước lệ mà khẳng định họ đang làm dạng kịch truyền hình trong nhà ngoài phố.

Nhiệt tình mang đến cái lạ cũng có thể đã làm cho kịch thiếu đi những khoảng lặng, những phút lắng lại, trầm sâu trong tâm tưởng và gieo vào người đọc những cảm xúc mà kịch bản đã sẵn có. Những yếu tố kỹ thuật tân thời và sự mải mê thủ pháp mảng miếng lạ có khi đã khiến cho kịch thiên về tính kỹ nghệ và duy lý.

Hon Truong Ba anh 2

Tạo hình tiên Đế Thích và bà vợ Trương Ba trong vở kịch. Ảnh: Se sẽ chứ.

Chiến trường của linh hồn và thể xác

Dù có tránh bớt liên tưởng đến cây cao bóng cả, thì cũng thấy sau mấy thế hệ của sân khấu kinh điển như Trọng Khôi, Mỹ Dung, Trần Tiến, Lan Hương (Quắm), Phạm Bằng… truyền thống dựng kịch kinh điển duy mỹ có thể đã dừng lại sau thế hệ của những Lê Khanh, Ngọc Huyền, Chí Trung, Anh Tú (và Thành Lộc ở Sài Gòn)…

Trong tình thế hiện nay, chạm đến những vở kịch kinh điển giàu tính biểu tượng và ẩn dụ, đạo diễn vẫn phải thỏa hiệp với lớp diễn viên mới để làm nên một thứ “tân cổ giao duyên” – chỉ nói về nghệ thuật diễn xuất. Phải chấp nhận pha trộn giữa động tác hình thể cách điệu và cách diễn tả thật, pha trộn lối diễn xuất giữa sân khấu và phim truyền hình. Đến thế mới thấy diễn viên đóng vai hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt nỗ lực rất nhiều mà cái gánh nặng ấy vẫn là quá sức.

Diễn viên không làm cho người xem thấy được cơn vật vã giằng giật của hồn bên trong xác, một khi hình thể khô cứng thiếu sinh sắc. Đài từ các diễn viên vốn quen được hỗ trợ khuếch âm của các phương tiện âm thanh hiện đại, khi bị khước từ dùng micrô, phải dùng giọng mộc, dùng âm thanh gốc, thì nỗi hoang mang không tự tin vào giọng mình bộc lộ qua những phát âm nhả chữ thiếu tròn vành, thậm chí nhiều khi díu và dính, nhòe và hụt hơi.

Trở lại với cách xử lý của đạo diễn. Kết thúc vở kịch, hồn ông Trương Ba chấp nhận cái chết và anh hàng thịt được sống lại. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi khi xưa đã để cho anh ta vùng dậy, nhìn quanh rồi thô lỗ quát mắng cô vợ – ngựa quen đường cũ, thói xưa khó bỏ.

Nhưng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama đã xử lý cách khác. Không chỉ ông Trương Ba chết, tất cả nhân vật từ anh hàng thịt, vợ chồng con cái nhà anh cho đến gia đình Trương Ba và bạn bè, cả tiên nữ và Đế Thích đều đi những bước giật lùi, họ đi ngược không gian và thời gian, để rồi tất thảy cùng đổ xuống, cùng lăn ra chết. Mới trước đó các nhân vật còn luận về chuyện hồn nọ xác kia, hồn không cần cậy nhờ cái xác, xác cũng chẳng phải mượn hồn, giờ thì hồn nào xác nào cũng chết. Tại sao vậy? Rằng không phải chỉ có một ông Trương Ba mới phải mượn thể xác người khác? Có khi cả thế gian này đều là hồn nọ xác kia, chẳng có ai được nguyên vẹn là mình, có khi ai ai cũng đều là những thực thể lắp ghép, để mà sống với đời?

Trên cái thế gian mà hóa ra chẳng có ai nguyên vẹn, chỉ còn lại một nhạc công ôm cây đàn ghi ta, đi như trên một bãi chiến trường sau trận đấu hồn và xác. Anh ta cũng là người dẫn chuyện bằng âm thanh trong suốt vở diễn. Và những âm thanh cuối cùng được cất lên, có thể là khúc cầu siêu, cũng có thể là khúc hoan ca.

Ở bản Hồn Trương Ba da hàng thịt của Tsuyoshi Sugiyama, đài từ và hình thể của các diễn viên nếu đạt chuẩn kịch kinh điển, sẽ chuyển tải nội dung trọn vẹn, và cái trải nghiệm sân khấu lạ lùng này sẽ thật sự là cách xử lý sân khấu kinh điển có ý nghĩa cho người xem hôm nay.

Tất nhiên sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới sẽ gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực. Nhật hóa và quốc tế hóa một vở kịch Việt như vậy, không chỉ vì đạo diễn Nhật Bản nhớ quê hương, mà biết đâu Tsuyoshi Sugiyama cũng mong một ngày nào đó bản dựng này sẽ đến với người xem ở quê hương anh và cả đâu đấy bên ngoài đất Việt.

Hồn Trương Ba da hàng thịt, kịch của Lưu Quang Vũ, đạo diễn: Tsuyoshi Sugiyama, sản xuất: Nguyễn Hoàng Điệp, diễn viên của nhiều nhà hát: Chiều Xuân, Kim Oanh, Xuân Tùng, Hương Thủy, Hoàng Tùng, Mạnh Hoàng, Thanh Lê, Hirota, Trường Khang… Ba buổi công diễn tác phẩm diễn ra từ 12 đến 14/1 tại rạp Công Nhân, Hà Nội.

Nguồn: https://znews.vn/hon-truong-ba-da-hang-thit-mot-cach-tiep-can-the-he-cong-chung-moi-post1454673.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng