Connect with us

Xuất Bản

Thế giới đang đi về đâu với đại dịch Covid-19?

Được phát hành

,

Khủng hoảng luôn tạo ra những thay đổi căn bản. Đại dịch có thể là cơ hội hiếm có để xây dựng lại xã hội tốt đẹp hơn, nhưng cũng có thể làm trầm trọng thêm những bất công sẵn có.

Khủng hoảng luôn tạo ra những thay đổi căn bản. Một số người tin rằng đại dịch này là cơ hội “nghìn năm có một” để lập lại trật tự xã hội và xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Những người khác sợ rằng nó chỉ góp phần làm trầm trọng thêm những bất công sẵn có trong xã hội.

Chúng ta có cảm giác đang sống lại những giấc mơ cũ

Tất cả mọi thứ xảy ra đều quá lạ lẫm và khiến người ta choáng váng tới mức không thể tin vào mắt mình. Đồng thời, rất nhiều người trong chúng ta có cảm giác đang sống lại những giấc mơ cũ bởi viễn cảnh này, đúng là chúng ta đã từng thấy trước đó, nhưng là trên tivi và trong các bộ phim bom tấn. Chúng ta cũng biết đại khái nó sẽ như thế nào, và điều này, bằng cách nào đó, làm cho thực tế đang diễn ra không hề bớt mà thậm chí còn lạ lùng hơn.

The gioi dang di ve dau voi dai dich Covid-19? hinh anh 1 7286.jpg

Ảnh minh hoạ.

Mỗi ngày đều mang đến tin tức về những diễn biến mà trước đây, hay thậm chí chỉ mới ngay tháng 2 thôi, chúng ta tưởng như là điều không thể. Chúng ta cập nhật tin tức không phải vì theo thói quen, mà vì có quá điều có thể đã xảy ra kể từ lần cuối chúng ta bấm “Refresh”.

Tưởng tượng chỉ vài tuần trước có ai đó nói với bạn: trong vòng một tháng, các trường học sẽ bị đóng cửa. Các cuộc tụ họp cộng đồng sẽ bị hủy bỏ. Hàng trăm triệu người trên thế giới sẽ phải nghỉ việc. Chính phủ tung ra những gói kích thích kinh tế lớn nhất trong lịch sử. Ở một số nơi, chủ nhà sẽ miễn tiền thuê nhà, ngân hàng cho chậm trả tiền vay thế chấp, và người vô gia cư được ở khách sạn miễn phí. Việc nghiên cứu, thí nghiệm được chính phủ trực tiếp tài trợ. Nhiều quốc gia trên thế giới phải cùng hợp tác, dù miễn cưỡng hay tự nguyện, vì một mục đích chung. Liệu bạn có tin nổi không?

Các cuộc khủng hoảng và thảm họa chính là chủ thể tạo tiền đề cho sự thay đổi

Không phải chỉ quy mô và tốc độ của những gì đang xảy ra mới làm chúng ta hoang mang, mà còn là một sự thật rằng chúng ta đã quen với việc xã hội không có khả năng thực hiện những bước nhảy vọt lớn với tốc độ nhanh chóng như thế này. Lịch sử cho thấy các cuộc khủng hoảng và thảm họa chính là chủ thể tạo tiền đề cho sự thay đổi, thường là theo chiều hướng tích cực hơn. Dịch cúm toàn cầu năm 1918 đã thúc đẩy sự ra đời của hệ thống dịch vụ y tế quốc gia ở nhiều nước châu Âu. Các cuộc khủng hoảng hệ quả của của cuộc Đại suy thoái và Chiến tranh thế giới thứ II đã tạo tiền đề cho chính sách phúc lợi hiện đại.

Nhưng khủng hoảng cũng có thể khiến xã hội tuột dốc. Sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/9, sự giám sát của chính phủ Mỹ đối với công dân trở nên đặc biệt khắt khe, và Tổng thống George W Bush đã phát động những cuộc chiến tranh mới kéo dài vô thời hạn. (Hiện nay, Mỹ đang nỗ lực cắt giảm lực lượng quân sự ở Afghanistan, 19 năm sau cuộc chiến, tuy nhiên đang bị trì hoãn bởi các diễn biến liên quan đến đại dịch Covid-19). Để xử lý cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, ngân sách Mỹ đã hao hụt nghiêm trọng trong nỗ lực cứu các ngân hàng và tổ chức tài chính khôi phục lại hoạt động bình thường như thời điểm trước sự cố, trong khi chi tiêu cho phúc lợi và các dịch vụ công lại bị cắt giảm.

Vì các cuộc khủng hoảng có khả năng định hình lịch sử, hàng trăm học giả đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu cách nó vận hành. Ví dụ như, khi khủng hoảng tấn công một cộng đồng nhất định, bằng cách nào bản chất thực của cộng đồng đó bộc lộ ra: ai có nhiều hơn và ai có ít hơn, sức mạnh nằm ở đâu, mọi người trân trọng và sợ hãi những gì.

Trong khoảnh khắc đó, những gì sai trái, thối nát trong xã hội đều tự động bị “bóc mẽ”. Gần đây chúng ta đã thấy vô số ví dụ. Các hãng hàng không phung phí nhiên liệu cho những chuyến bay vắng khách hoặc thậm chí trống không, cốt chỉ để giữ đường bay ưu tiên của mình. Cảnh sát Pháp phạt những người vô gia cư vì ở ngoài đường trong thời gian đất nước phong toả. Các tù nhân ở New York đang được trả ít hơn một đôla mỗi giờ để đóng chai nước rửa tay sát khuẩn mà họ không được phép sử dụng (vì có chứa cồn), trong một nhà tù nơi họ không được dùng xà phòng miễn phí mà phải tự bỏ tiền mua.

Nhưng thảm họa và những cuộc khủng hoảng không chỉ làm sáng tỏ bản chất của xã hội mà cũng đập vỡ tấm rào chắn của “sự bình thường” để chúng ta thấy được khả năng vươn tới một thế giới khác. Một số học giả nghiên cứu về thảm họa tập trung vào những khía cạnh tiêu cực. Nhiều người khác thì lạc quan hơn, đánh giá các cuộc khủng hoảng không chỉ về những gì đã mất mà còn cả những gì đã đạt được. Tất nhiên mỗi thảm họa mỗi khác, và nó luôn có hai mặt: được và mất cùng song song tồn tại. Chỉ sau khi xong xuôi và nhìn lại, những đường nét của thế giới mới mà chúng ta vừa bước vào mới trở nên rõ ràng.

Nhìn một cách trần trụi, khủng hoảng khiến những điều tồi tệ càng tồi tệ hơn. Những học giả nghiên cứu về thảm họa, và đặc biệt là đại dịch, đều nhất trí nó gây ra chứng bài ngoại và phân biệt chủng tộc. Khi đại dịch “Cái chết đen” tấn công châu Âu vào thế kỷ XIV, các thành phố và thị trấn đóng cửa với bên ngoài, và người dân tấn công, xua đuổi và giết chết những người Do Thái. Năm 1858, một nhóm người ở thành phố New York đã đột nhập vào một bệnh viện kiểm dịch người nhập cư trên đảo Staten, yêu cầu mọi người rời đi và sau đó đốt cháy bệnh viện vì sợ người nhập cư mang theo bệnh bị sốt vàng. Wikipedia hiện có một trang thu thập các ví dụ từ hơn 35 quốc gia về sự bài ngoại và phân biệt chủng tộc liên quan đến đại dịch Covid-19, bao gồm từ những lời chế nhạo đến tấn công trực diện.

“Nhìn nhận thế giới một cách hợp lý, bạn có thể cho rằng đại dịch toàn cầu tạo điều kiện phát triển chủ nghĩa quốc tế,” theo Nhà sử học nổi tiếng người Mỹ Mike Davis chuyên nghiên cứu về các thảm họa mang tính toàn cầu. Theo Davis, người đã viết một cuốn sách về mối đe dọa của dịch cúm gia cầm năm 2005, đại dịch là một ví dụ hoàn hảo về loại khủng hoảng mà chủ nghĩa tư bản toàn cầu (với đặc trưng là sự di chuyển liên tục của con người và hàng hóa) đặc biệt dễ bị tổn thương, mà tư duy tư bản (đặc trưng bởi việc không thể suy nghĩ về điều gì khác ngoài lợi nhuận) không thể giải quyết.

“Trong thế giới hợp lý đó, chúng ta sẽ tăng cường sản xuất các vật tư thiết yếu, như bộ kit xét nghiệm, khẩu trang, mặt nạ phòng độc, không chỉ để mình sử dụng, mà còn cho các nước nghèo. Bởi vì đây là một cuộc chiến chung. Nhưng thực tế lại không hẳn là một thế giới hợp lý. Vì vậy, có thể còn tồn tại sự kì thị và cách ly, bài trừ. Điều đó gây ra nhiều thương vong và khổ đau hơn trên toàn thế giới.

Ở Mỹ, Tổng thống Trump có thời điểm đã gọi virus corona là “virus Trung Quốc”, và lấy đại dịch này như một cái cớ để thắt chặt canh gác biên giới và từ chối người xin tị nạn. Ngược lại, một số quan chức Trung Quốc đã đặt ra thuyết âm mưu nghi ngờ lính Mỹ đã đem dịch bệnh đến Trung Quốc. Ở châu Âu, Thủ tướng Hungary, Viktor Orbán, gần đây đã tuyên bố: “Hiện chúng tôi đang chiến đấu trong một cuộc chiến với hai mặt trận: một mặt trận là vấn đề di cư, và mặt kia là virus corona. Hai đối tượng này có liên hệ với nhau, và cùng lan truyền với những diễn biến khó lường”.

Trong cuộc chiến, bạn muốn biết càng nhiều về kẻ thù càng tốt. Nhưng việc đặt các công cụ giám sát trong thời kỳ khủng hoảng có thể có tác hại lâu dài. Học giả Shoshana Zuboff, tác giả của cuốn “Thời đại tư bản giám sát” (“The Age of Surveillance Capitalism”), cho biết, trước ngày 9/11, chính phủ Mỹ đang trong quá trình xây dựng hành lang pháp lý để cung cấp cho người dùng mạng sự lựa chọn thực sự về việc cho phép sử dụng thông tin cá nhân của họ hay không. “Tuy nhiên, chỉ trong vòng vài ngày,” Zuboff nói, “mối quan tâm đã chuyển từ ‘Làm thế nào để chúng ta quản lý các công ty vi phạm các quy tắc và quyền riêng tư’ sang ‘Làm thế nào để chúng ta nuôi dưỡng và bảo vệ các công ty này để chúng có thể thu thập dữ liệu cho mình?’

Thế giới biến chuyển vì đại dịch

Đối với các chính phủ đang tìm cách giám sát công dân chặt chẽ hơn nữa và các công ty làm giàu từ lĩnh vực này, thật khó để tưởng tượng ra một cơ hội nào hoàn hảo hơn đại dịch toàn cầu. Ở Trung Quốc ngày nay, máy bay không người lái nhận diện những người không đeo khẩu trang; và khi tìm thấy, chúng phát ra những lời trách mắng đe doạ từ cảnh sát. Đức, Áo, Italy và Bỉ đang sử dụng dữ liệu từ các công ty viễn thông lớn để theo dõi di chuyển của người dân. Tại Israel, cơ quan an ninh quốc gia đã được phép truy cập điện thoại cá nhân của người bị nhiễm bệnh. Hàn Quốc gửi tin nhắn công cộng nêu tên các bệnh nhân nghi nhiễm và thông tin về nơi họ đã đến.

Giám sát không hẳn luôn luôn xấu, và công nghệ mới rất có thể sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại virus, nhưng Zuboff lo ngại rằng các biện pháp khẩn cấp này sẽ trở thành vĩnh viễn, gắn chặt với cuộc sống đến nỗi chúng ta quên đi lý do nó xuất hiện ban đầu. Phong toả đã khiến nhiều người ngồi nhà dán mắt vào máy tính và điện thoại, phụ thuộc vào các công ty công nghệ hơn bao giờ hết. Nhiều công ty trong số này đang tích cực thuyết phục chính phủ rằng mình đóng vai trò là một phần quan trọng của giải pháp. “Người dân sẽ quên đi các quyền riêng tư khi đang đối phó với một thứ gì đó như đại dịch,” ông Vasuki Shastry, một học giả ở Chatham House chuyên nghiên cứu về sự tương tác của công nghệ và nền dân chủ. “Một khi một hệ thống đã được khởi động, rất khó để lùi lại. Và sau đó nó có thể được sử dụng vì mục đích khác”.

Trong khoảng vài tuần, các thủ tướng của Israel và Hungary đã thực sự được trao quyền cai trị bằng sắc lệnh mà không có sự can thiệp từ tòa án hoặc cơ quan lập pháp. Trong khi đó, dự luật về phòng chống virus corona mới của Anh trao quyền cho cảnh sát và nhân viên quản lý nhập cư, trong vòng hai năm tới, được phép bắt và giam giữ những người nghi ngờ mang virus để kiểm tra. Bộ Tư pháp Mỹ, kể từ khi dịch bệnh bắt đầu, đã đề nghị Quốc hội phê chuẩn một quy định mới cho phép thẩm phán dừng các thủ tục tố tụng tại tòa án trong trường hợp khẩn cấp, có thể khiến nhiều người bị bỏ tù mà không thể chính thức bào chữa.

“Chúng ta biết điều này diễn ra như thế nào,” Kevin Blowe của Netpol, một nhóm thúc đẩy quyền phản kháng ở Anh. “Những quyền hạn này được đưa ra, nghe có vẻ hợp lý vào thời điểm đó, nhưng rất nhanh sau đó, họ sẽ sử dụng chúng cho các mục đích khác không liên quan đến dân chủ và an ninh công cộng”.

Có một trường phái tư tưởng khác cho rằng nhìn vào khủng hoảng để thấy những tiềm năng. Đối với những người theo tư tưởng này, khủng hoảng tài chính năm 2008 là một cơ hội lớn. Và Covid-19 có thể mở ra đưa đến những tiến bộ về chính trị.

“Tôi nghĩ chúng ta đã thay đổi nhiều từ những hậu quả của cuộc khủng hoảng năm 2008,” Nhà văn Mỹ Rebecca Solnit, điều tra về các cuộc khủng hoảng và những hệ lụy của nó, nói. “Có những điều đã từng được xem là lạ lẫm giờ lại trở nên hợp lý với nhiều người. Cơ hội và động lực cho sự thay đổi đã xuất hiện. Đó là sự mở đầu”.

Những sai lầm trong quản lý đôi khi không chỉ đơn thuần là do năng lực kém mà còn có thể xuất phát từ mục đích tiêu cực. Trong cuốn sách năm 2007 của mình, The Shock Doctrine (tạm dịch: Học thuyết sốc), nhà văn người Canada Naomi Klein đã đưa ra một lý thuyết khá “u ám” về khủng hoảng. Theo quan điểm của Klein, luôn có loại “Thảm họa 1”, gồm động đất, bão, xung đột quân sự, suy thoái kinh tế; và “Thảm họa 2”, những chính sách hậu khủng hoảng sai lầm của những kẻ cầm quyền, như các biện pháp cải cách kinh tế cực đoan hoặc lợi dụng giai đoạn hậu khủng hoảng để trục lợi. (Trên thực tế, Klein lập luận, những người này đôi khi chính là thủ phạm gây ra Thảm họa 1 như một phần của kế hoạch).

Không như cuốn sách Solnit, The Shock Doctrine không nói nhiều về khả năng của con người đối phó với khủng hoảng. Nhưng hai cuốn sách này khớp với nhau như những mảnh ghép. Cả hai đều diễn giải khủng hoảng không phải theo cách chúng ta thường quan niệm, là những gì không thể tránh khỏi, hay tự nhiên xảy ra, mà về những lựa chọn của con người trong khi đối mặt với nó. Và cả hai đã kịp thời đóng góp luận cứ cho các cuộc đối thoại chính trị hình thành từ đống đổ nát của vụ khủng hoảng tài chính.

Nhìn thế giới khác đi

Vào năm 2008, vài ngày sau cuộc bầu cử Tổng thống Barack Obama, Chánh Văn phòng của ông, Rahm Emanuel, đã có một phát ngôn nổi tiếng: “Bạn không bao giờ muốn phí phạm một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng”. Ngày nay, những người cánh tả, vốn không ủng hộ ông Obama, có xu hướng đồng ý với câu nói này. Họ cảm thấy, với những khủng hoảng gần đây, họ đã thua cuộc, và bây giờ là lúc để sửa sai. Khi đối mặt với một đại dịch, nếu chúng ta có thể tạo ra những thay đổi lớn như vậy chỉ trong một vài tuần, thì với khoảng thời gian một năm thì còn có thể đến mức nào?

Đối với những ai đưa ra lập luận này, sự tương phản giữa cuộc khủng hoảng năm 2008 và khủng hoảng hiện tại là rất đáng kể. So với cuộc khủng hoảng tài chính “rối rắm” kia thì con virus corona nhìn chung dễ hiểu hơn nhiều. Đó là tập hợp của những khủng hoảng trên nhiều lĩnh vực, và tất cả đều diễn ra ngay lập tức và rõ ràng. Các chính trị gia đang nhiễm bệnh. Những người nổi tiếng và giàu có đang nhiễm bệnh. Bạn bè và người thân của bạn cũng đang bị nhiễm bệnh. Có thể không phải ai cũng thiệt hại như nhau, như mọi khi, người nghèo bao giờ cũng sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề hơn – điều này hiển nhiên là rõ ràng hơn so với năm 2008.

The gioi dang di ve dau voi dai dich Covid-19? hinh anh 2 paris_6.jpg

Những đường phố vắng vẻ khiến người ta dễ tưởng tượng hơn vềcuộc sống của con người trong thành phố Paris. Ảnh: The New York Times.

Có những người lạc quan tin hy vọng rằng từ đây chúng ta sẽ bắt đầu nhìn thế giới khác đi. Có lẽ chúng ta sẽ nhìn các vấn đề của xã hội ngày nay là vấn đề chung chứ không của riêng ai, và xã hội không chỉ là một tập hợp hỗn loạn các cá nhân tranh giành tiền bạc và địa vị. Có thể chúng ta cũng sẽ hiểu rằng hoạt động của thị trường không nên chi phối nhiều lĩnh vực trong xã hội loài người như bây giờ.

Tuy nhiên, so với khủng hoảng năm 2008 thì biến đổi khí hậu là một thảm họa lớn hơn cả. Chúng ta thấy rõ nó sắp tới, hay thậm chí đã đang xảy ra rồi, và chúng ta phải chống lại nó.

The gioi dang di ve dau voi dai dich Covid-19? hinh anh 3 3664.jpg

Ảnh minh hoạ.

Mặc dù Covid-19 có thể là cuộc khủng hoảng toàn cầu lớn nhất thế giới kể từ sau Thế chiến thứ hai, nhưng về dài hạn, nó vẫn “lép vế” trước biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, hai thảm hoạ này vẫn có nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều cần có sự hợp tác toàn cầu đặc biệt để xử lý. Cả hai đều yêu cầu sự thay đổi trong hành vi ngày hôm nay để giảm bớt tổn thất ngày mai. Cả hai vấn đề đã được các nhà khoa học dự đoán từ lâu với sự khẳng định chắc chắn nhưng bị các chính phủ “lờ đi” trước những con số mục tiêu tăng trưởng tài chính quý tiếp theo. Theo đó, cả hai thảm hoạ này đều buộc các chính phủ phải hành động quyết liệt và loại bỏ những hoạt động của thị trường trong khi đẩy mạnh đầu tư công. Nói cách khác, nếu coi việc can thiệp của chính phủ chỉ là vì yêu cầu tạm thời thì đảm bảo rằng chúng ta sẽ tiếp tục lún sâu vào nguy cơ dẫn đến thảm họa khí hậu.

Tuy nhiên, tác động của biến đổi khí hậu diễn ra từ từ hơn so với Covid-19 khiến con người không cảm nhận được mối nguy hiểm, vì vậy ‘chế độ khẩn cấp’ sẽ khó kích hoạt và duy trì hơn. Giới chuyên gia chỉ ra nếu chúng ta thực sự chấp nhận rằng chúng ta đang ở trong tình trạng khẩn cấp về khí hậu, thì mỗi ngày tin tức sẽ cập nhật xem quốc gia nào giảm phát thải nhanh nhất và người dân sẽ đòi hỏi các nhà lãnh đạo đưa ra những chính sách có hiệu quả.

Covid-19 cũng đã cho chúng ta thấy được sự thay đổi về môi trường và khí hậu. Từ khi virus xuất hiện, hoạt động công nghiệp và giao thông đường bộ bị đình chỉ, ô nhiễm không khí đã giảm mạnh. Đầu tháng 3, nhà khoa học Marshall Burke của Đại học Stanford đã sử dụng dữ liệu đo độ ô nhiễm của bốn thành phố ở Trung Quốc để xem xét sự thay đổi nồng độ PM2.5, một chất ô nhiễm đặc biệt có hại cho tim và phổi. Ông ước tính, chỉ riêng ở Trung Quốc, việc giảm phát thải kể từ khi bắt đầu đại dịch đã cứu sống ít nhất 1.400 trẻ em dưới 5 tuổi và 51.700 người già trên 70 tuổi. Trong khi đó, nhiều người cũng đã chia sẻ lần đầu cảm nhận được những cơn gió ngọt ngào, làn đường thoáng đãng và tiếng chim hót rộn ràng các khu phố – theo cách gần giống với những gì Rebecca Solnit đã nói: trong thảm hoạ, con người chợt thấy được viễn cảnh tương lai mà họ biết họ cần.

Bên cạnh những tín hiệu tích cực này, một câu chuyện ít gây chú ý hơn đang được mở ra, phù hợp lý thuyết “u ám” về thảm hoạ của Klein. “Thảm họa 1” ở đây là Covid-19. “Thảm họa 2” là việc đình chỉ và dỡ bỏ các quy định bảo vệ môi trường ít ỏi hiện có. Vào ngày 26/3, sau cuộc vận động hành lang từ ngành năng lượng, Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ tuyên bố công nhận tác động của đại dịch đối với lực lượng lao động và sẽ miễn phạt vi phạm các quy định về ô nhiễm môi trường miễn là các công ty có thể gắn những vi phạm đó với hệ quả của đại dịch. Bộ Môi trường Trung Quốc đã bắt đầu từ bỏ các cuộc kiểm tra đánh giá tác động môi trường tại các cơ sở sản xuất công nghiệp. Và các nhóm vận động được tài trợ bởi ngành công nghiệp nhựa cổ suý tiêu dùng túi nhựa sử dụng một lần với lý do (chưa được chứng minh) là virus ít bám trên nhựa hơn trên vải của các loại túi tái chế. Nhìn lại cuộc khủng hoảng năm 2008, chúng ta có thể thấy lượng khí thải cũng đã giảm, nhưng chỉ để “phục hồi” mạnh mẽ hơn trong năm 2010 và 2011.

The gioi dang di ve dau voi dai dich Covid-19? hinh anh 4 paris_5.jpg

Những mái nhà ở Paris. Ảnh: The New York Times.

Giới chuyên gia tin rằng một bài học từ khủng hoảng dịch bệnh lần này là sức mạnh của sự chia sẻ cảm xúc, điều đã giúp lan truyền những hành động quyết liệt để làm chậm đại dịch. “Tôi không nói về những việc mọi người truyền tai nhau những lời khuyên y tế. Tôi muốn nói tới những người gọi nhau và nói: ‘Bạn thế nào? Bạn có sợ không? Tôi sợ. Tôi muốn bạn ổn, tôi muốn chúng ta cùng ổn.’ Và đó cũng là những gì chúng tôi muốn cho vấn đề khí hậu. Chúng ta cần phải học cách sợ hãi cùng nhau, để đồng lòng trước những gì chúng ta sợ hãi”. Chỉ sau đó, cô nói, các chính phủ sẽ buộc phải hành động.

Làm sao để viễn cảnh trong mắt những người lạc quan được hiện thực hóa? Làm thế nào để chúng ta ngăn chặn thế giới quay trở về “phiên bản” giống như trước Covid-19, với virus đã bị tiêu diệt nhưng tất cả các thảm họa khác vẫn chưa được giải quyết?

Bên cạnh đó, thật ấm áp khi mọi người đang tìm cách kết nối và giúp đỡ lẫn nhau trên khắp thế giới, từ các mạng lưới tình nguyên viện giao hàng mọc lên để mang đồ từ những cửa hàng tạp hóa đến cho những người không thể ra ngoài, cho đến những điều mang tính biểu tượng, chẳng hạn như trẻ em chơi nhạc trên hiên nhà của một người già. Nhà khoa học chính trị người Italy Alessandro Delfanti cho biết ông đang nhìn thấy triển vọng từ làn sóng đình công hậu khủng hoảng tại các kho hàng của Amazon ở Mỹ và châu Âu, và cả những điều mà người lao động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế Italy đang làm để giúp nhau giữ an toàn

Điều gì xảy ra tiếp theo phụ thuộc vào khả năng của những người lạc quan để đưa tinh thần đoàn kết đó lan toả trên phạm vi chính trị rộng lớn hơn, lập luận rằng thật vô nghĩa nếu chỉ đơn thuần giải quyết Covid-19 mà không, ít nhất là, cố gắng sửa chữa những “hỏng hóc” khác, tạo ra một thế giới nơi tài nguyên được chia sẻ và giúp đỡ nhiều người hơn. “Chúng ta không có ngôn ngữ nào để diễn tả cảm xúc này, trong đó điều tuyệt vời nảy mầm trong khủng hoảng, niềm vui sinh trong nỗi buồn, sự can đảm đến từ nỗi sợ hãi,” Solnit đã viết trong A Paradise Build in Hell. “Chúng ta không hoan nghênh thảm họa, nhưng có thể hiểu được nhiều từ những phản ứng khi đối mặt với nó, cả về mặt thực tế và mặt tâm lý”.

Thế giới bây giờ đang vô cùng lạ lẫm, nhưng không phải vì, hoặc không chỉ vì, nó đang thay đổi quá nhanh và bất kỳ ai trong chúng ta đều cũng có thể nhiễm bệnh bất cứ lúc nào, hoặc có thể đã mang virus mà không biết. Nó lạ lẫm bởi vài tuần qua đã cho thấy một thực tế rằng những điều lớn nhất luôn có thể thay đổi, bất cứ lúc nào. Sự thật đơn giản này, tuy nhiên, lại rất dễ quên. Chúng ta không đang xem một bộ phim nào cả, mà đang cùng nhau làm nên nó, tận cho đến đoạn kết.

Đồng loạt vỗ tay cổ vũ nhân viên tuyến đầu chống Covid-19 Cảnh sát, lính cứu hỏa và nhân viên y tế vỗ tay cổ vũ nhân viên tuyến đầu chống dịch vào lúc 20h ở Trung tâm y tế tại Nottingham.

Nguồn: Zing (https://news.zing.vn/the-gioi-dang-di-ve-dau-voi-dai-dich-covid-19-post1067974.html)

Xuất Bản

Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự

Được phát hành

,

Bởi

Nhà văn là nhân chứng sáng suốt, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống.

Le Minh Khue anh 1

Nhà văn được giải Nobel Svetlana Alexievich và nhà văn Lê Minh Khuê tại liên hoan.

Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Văn chương hòa bình ở thành phố sách Pazu

Từ nhiều năm nay, có rất nhiều cuộc gặp gỡ văn chương được Hàn Quốc tổ chức, quy tụ nhiều nhà văn ở các nước đến để dự liên hoan và hội nghị về các vấn đề lớn. Các nhà văn thường đại diện cho những vùng đất ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin. Ít khi có khuôn mặt đại diện của châu Âu và Bắc Mỹ. Giáo sư Kim Jae Yong, người trong ban tổ chức các hội thảo nói với tôi: “Tôi thích đại biểu của châu Á, châu Phi và Mỹ Latin”.

Năm 2008, tôi được dự hội nghị có hàng trăm nhà văn nhiều màu da. Những cuộc gặp gỡ, những ý kiến khác nhau, nhiều tiếng nói của các miền đất. Nhưng cũng giống như các hội nghị trên thế giới, không ai biết người đang đối thoại của mình từng viết gì. Vui vẻ như vậy, và cũng biết là đã đến các cuộc gặp gỡ này thì ai cũng có “thành tựu” nào đấy, nhưng chẳng ai biết rõ về ai, cuộc sống, tài năng, công việc hàng ngày… Mà có lẽ như thế lại hay.

Nhìn thấy nhau đột nhiên thấy quý mến vì nụ cười, vì màu da, vì xa cách địa lý nhưng cũng có một công việc và cũng có sự quan tâm sâu sắc tới cuộc sống của đất nước mình.

Cuối tháng 11/2023, tôi được mời đến Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ (De-military Zone) do Quỹ văn hóa tỉnh Gyeong-gi chủ trì. Gyeong-gi là tỉnh lớn, một đơn vị hành chính rất quan trọng của Hàn Quốc, có 13 triệu dân, ở ngay cạnh Thủ đô Seoul. Liên hoan tổ chức ở thành phố xuất bản Pazu, nơi chỉ có các nhà xuất bản, và chỉ sách là sách. Khi nhận lời mời tôi nghĩ chắc liên hoan sẽ đặt trọng tâm vào vấn đề về chiến tranh. Chiến sự Nga – Ukraine đang ác liệt. Và từ mấy hôm trước chiến sự ở dải Gaza đang làm cả thế giới thấy bất an.

Đến dự liên hoan, người đầu tiên tôi chú ý nhìn là nhà văn Adania Shibli đến từ Palestine, một người phụ nữ gầy gò, khuôn mặt thông minh nhưng trông có gì đó như thảng thốt. Quê hương của cô ở dải Gaza đang hứng chịu bom đạn chết chóc, trẻ con chết hàng ngày. Tôi bắt tay cô, không nói với nhau được gì nhưng có vẻ cô thấu hiểu tình cảm của người chia sẻ.

Liên hoan có 12 tác giả nước ngoài và 38 tác giả Hàn Quốc, toàn người rất nổi tiếng. Sáu nhà văn trong ban tổ chức là các giáo sư kiêm tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà thơ. Giáo sư Kim Jae Yong rất bận rộn. Ông có những giờ giảng bài ở các trường đại học nên khi đến muộn, ông bắt tay tôi rất chặt. Chúng tôi quen nhau từ năm 2008 và khi tôi tới Hadong nhận giải thưởng văn học quốc tế mang tên văn hào Byeong-ju Lee, ở xa ông đã gọi điện chúc mừng.

Các nhà văn đến từ Nigeria, Ấn Độ, Tunisia, Peru, từ Đài Loan (Trung Quốc), Philippines, Nhật Bản đều ở độ tuổi từ 50 đến 70. Nhà văn da đen Niyi Osundare là người gốc Nigeria nhưng là công dân Mỹ, sống ở bang Louisiana. Ông cười cởi mở, thân thiện với tôi và hát một bài hát gì đó mà điệp khúc nhắc đi nhắc lại Việt Nam… Việt Nam. Ông hát say sưa và bảo với tôi: Đấy, người dân châu Phi rất yêu quý Việt Nam. Ông cùng tuổi với tôi, có ba người con trai, ông hay khoác tay tôi và bảo: Nào, các ông bà già hãy ngồi xuống! Rồi nhắc đi nhắc lại: Việt Nam – Mọi chuyện đều ổn!

Những khi như vậy lại cứ tiếc là chưa được đọc tác phẩm của họ. Cô gái người Philippines cũng vậy. Xinh đẹp, sinh động, tuổi chỉ hơn 40, cô hỏi tôi: Đột nhiên chị gặp tôi ở Hà Nội thì chị sẽ thế nào? Rồi cười tươi tắn bảo: Tôi sẽ tới Việt Nam!

Tham luận của các nhà văn đều hướng đến những vấn đề ở đất nước họ. Xung đột vùng đất, sắc tộc, cách để tồn tại ở một nơi xa lạ. Tôi nói đến những người mẹ trong chiến tranh Việt Nam. Giáo sư Kim Jae Yong bảo tham luận của tôi rất gần với tiêu chí của hội thảo. Thực ra ở Việt Nam đề tài chiến tranh gắn kết với cuộc đời của nhiều thế hệ, cho đến rất lâu sau chiến tranh vẫn chưa thể ra khỏi vùng đất mà nhà văn đề cập.

Trong bữa sáng ở khách sạn, Priya Basil, nhà văn gốc Ấn Độ hiện sống ở Đức có hỏi tôi: Thế khi tham gia chiến tranh chị sợ ai nhất? Cô ấy hỏi ai chứ không hỏi cái gì. Tôi bảo tôi sợ cái chết. Chị có căm thù người Mỹ không? Không. Lúc ấy thì không. Tôi chỉ sợ hãi. Sợ hãi choán hết tâm trí con người. Còn căm thù thì có. Nó tới dần dần. Qua nhận thức, qua thời gian.

Ở Khu Phi quân sự, biên giới giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên, trong khi đứng bên này nhìn sang phía Bắc Triều Tiên, hôm ấy mù trời, không thấy rõ, chỉ thấy thấp thoáng cánh đồng lúa, nhà văn người Ấn Độ nhìn tôi cười: Việt Nam có hoàn cảnh như thế này lâu không? Tôi bảo hơn hai mươi năm. Anh ấy trầm ngâm: Ừ, cũng phải bao nhiêu xương máu…

Diễn đàn khơi gợi ký ức

Mọi người đều có vẻ cảm thông, chia sẻ với nhau. Nhất là khi lúc này bom đạn đang làm thế giới chao đảo, bất ổn. Các bản tham luận đều nói tới ước mong hòa bình cho các vùng đất. Bản tham luận của nhà văn đoạt giải Nobel nói rất nhiều đến ký ức chiến tranh, khi nước Pháp bị xâm chiếm và đội quân xâm lược có những lúc như muốn lấy lòng người dân. Tên lính Đức đưa cho tác giả, lúc ấy còn bé, mấy thanh sôcôla. Lát sau bà ngoại của ông phải giấu vứt đi, vì sợ bị đầu độc. Ông nói nhiều tới ký ức chiến tranh trong các buổi giao lưu, ông nhắc tới những cuộc đối đầu với quân Đức và ký ức bạo lực hầu như theo ông suốt đời.

Le Minh Khue anh 2

Các nhà văn quốc tế dự Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ Hàn Quốc, tháng 11.2023

Jean-Marie Gustave Le Clézio – một cái tên không xa lạ với độc giả Việt Nam. Tôi đã đọc tiểu thuyết Sa mạc của ông. Đọc các truyện ngắn. Đặc biệt là tiểu thuyết Sa mạc, rất khác với các tiểu thuyết có vẻ hơi nhẹ nhõm bóng bẩy ở một số nhà văn Pháp, tiểu thuyết của ông tràn đầy chi tiết, sự kiện, dày đặc tình huống về đời sống trên sa mạc, rất hấp dẫn và không dễ đọc. Ông là một trong ba nhà văn Pháp nổi tiếng, tiêu biểu, là người đã xuất bản trên 30 tác phẩm.

Le Clézio nhận giải Nobel Văn chương năm 2008. Trong lần đi thăm Khu Phi quân sự DMZ, nơi chia cắt hai miền Triều Tiên, ông ngồi giữa hai người phụ nữ, chắc một người là thư ký. Ông cao dong dỏng, thẳng thớm, rắn rỏi, dù đã ngoài 80. Trông ông rất trẻ. Chắc thời trẻ ông cực kỳ hấp dẫn. Tôi chỉ nói được với ông hai ba câu, nhờ Choi Hana dịch qua tiếng Anh. Tôi nói ở Việt Nam sách của ông nhiều người đọc nhất là thanh niên. Ông bình thản gật đầu. Tôi hỏi ông có đọc một vài nhà văn gốc Việt ở Pháp không. Ông bảo ông biết Linda Lê. Ông hỏi sách của tôi có được dịch ở Pháp không? Không, tôi chỉ được in sách ở Mỹ. Ông bảo sắp tới ông sẽ đi Mỹ, ông sẽ tìm đọc…

Tôi biết đó là điều không thể, vì ông hiếm thời gian, vì đi tìm một cuốn sách in đã lâu là điều không thể. Và vì sự quan tâm đến một nhà văn xa lạ cũng rất không thể. Nhưng tôi cảm động vì cách cư xử lịch sự của ông, nó gây nên thiện cảm, sự ấm áp và trân trọng… Những ngày ở Hàn Quốc, giữa các cuộc hội thảo và tham quan, Le Clézio rất trầm lặng, thậm chí có vẻ xa cách. Cũng không thấy nhà văn của nước nào ngồi trò chuyện với ông ngoài các cuộc hội thảo ông ngồi trên diễn đàn, trả lời vài câu hỏi, bàn tới vấn đề chiến tranh – hòa bình và điều ông nói trong hội thảo cũng như trong bản tham luận làm ta suy nghĩ.

Ông nói đến những bi kịch lớn của lịch sử thế giới, những cuộc chinh phục thuộc địa, sự tàn sát người vô tội ở châu Mỹ da đỏ, buôn bán nô lệ từ châu Phi, các cuộc chiến tranh thế giới… Không điều nào trong số đó bị văn chương ngăn chặn. Có lẽ đó không phải là vai trò của văn chương. Nhà văn không phải là nhà tiên tri hay nhà chính trị. Trên hết họ là nhân chứng… Tác phẩm của họ cộng hưởng, đôi khi khuếch đại những sự kiện xảy ra cùng thời với họ, nhưng chúng không ảnh hưởng đến tiến trình chung…

Người cùng ngồi trên diễn đàn với ông là bà Svetlana Alexievich, nhà văn người Belarus được giải Nobel Văn chương năm 2015. Tôi chú ý khuôn mặt hiền hậu của bà, nhưng cái vẻ không khoan nhượng của bà giống như một đặc điểm của các nhà văn nữ hay quan tâm đến các đề tài khó như chiến tranh, như chính trị và thuyết phục người đọc bằng quan điểm cứng rắn. Tôi chú ý tìm bà ngay từ đầu khi bà đi ra cùng hai cô thư ký. Tôi nói với bà: Tôi là nhà văn Việt Nam. Tôi đã trải qua chiến tranh.

Đôi mắt bà nhìn rất nhanh qua tôi. Như nắm bắt nhanh một ấn tượng. Cái nhìn vừa như muốn quen biết vừa như dò hỏi. Nhưng thiện cảm thì rất rõ. Chúng tôi bắt tay nhau nhưng nói chuyện lại khó. Bà nói tiếng Nga. Phải có một phiên dịch tiếng Anh biết tiếng Nga. Đành chỉ biết cười vậy!

Svetlana Alexievich gây ấn tượng với tôi từ lâu khi tôi đọc quyển Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ của bà. Sách được ông Nguyên Ngọc chuyển ngữ thu hút người đọc Việt Nam hơn vì tác giả và dịch giả cùng trải qua chiến tranh, có sự đồng cảm lớn.

Trong quyển sách của bà có một chi tiết làm tôi xúc động ngay từ lần đọc đầu tiên. Một nhóm nữ du kích bị bọn Đức bắt giam. Những tên Gestapo độc ác. Một người phụ nữ có đứa con nhỏ hơn một tuổi chưa biết nói. Khi bọn lính lôi người mẹ đi, đứa trẻ lần đầu tiên trong đời hét lên: Mẹ!

Quyển sách sắp xuất bản của bà cũng thuộc thể loại văn xuôi phi hư cấu. […]

Rất nhiều câu chuyện Svetlana nói trên diễn đàn. Cuộc chiến đang diễn ra và chuyện của bà thu hút người nghe.

Những tác giả Nobel Văn chương đến Hàn Quốc là một sự kiện. Hội trường đông nghẹt người nghe. Buổi giao lưu quan trọng có vị phó tỉnh trưởng tỉnh Gyeong-gi cầm trịch. Vị quan chức của tỉnh là người rất am hiểu văn chương. Ông dẫn dắt, gợi ý, từ đại biểu đến thính giả đều như hướng về cách gợi mở của ông. Trong dàn người đông đúc khi chụp ảnh lưu niệm, ông nhìn về phía tôi rồi tiến tới hỏi tôi ở đâu. Tôi ở Việt Nam đến! Ông cười rạng rỡ, nói như chúc mừng: Chào Việt Nam!

Nhìn cách đón tiếp trân trọng, sự nể nang của mọi người mới thấy người được giải Nobel cực kỳ hạnh phúc. Những điều ông Le Clézio nói làm tôi vừa tâm đắc vừa lấy lại niềm tin vào công việc mà lâu nay mình đã xem nhẹ. Văn chương đích thực phải được nuôi dưỡng trong môi trường tương xứng. Không khí tinh thần ô nhiễm khiến người viết chán nản, tự rẻ rúng với nghề. Nhà văn ta cũng có nhiều sự đáng bị xem thường, nhưng nếu như cần lấy lại sự tôn trọng thì cần hiểu hơn nữa cái nghề mình theo.

Bởi theo nhà văn đoạt giải Nobel mà tôi gặp, văn chương không giúp ích trực tiếp cho bất kỳ một mặt nào của cuộc sống. Văn chương không ngăn cản được chiến tranh, không ngăn cản được đói nghèo, không làm dịu được sự phẫn nộ của thiên nhiên. Nhưng nhà văn là nhân chứng sáng suốt bậc nhất, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống. Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Nhà văn – có lẽ cũng là người cần thiết.

Nguồn: https://znews.vn/lien-hoan-van-chuong-hoa-binh-o-khu-phi-quan-su-post1453329.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

Những dự án lan tỏa tình yêu sách

Được phát hành

,

Bởi

Không chỉ đầu tư nâng cao chất lượng sách, các đơn vị xuất bản còn tổ chức nhiều hoạt động nhằm lan tỏa tình yêu sách, góp phần xây dựng thói quen đọc.

Du an tang sach anh 1

“Chia sẻ yêu thương – Chào xuân mới” là chương trình Nhà xuất bản (NXB) Phụ nữ Việt Nam phối hợp cùng Ban Quản lý Phố sách Hà Nội và Câu lạc bộ Gia đình người tự kỷ Hà Nội tổ chức trong tuần này với mong muốn đáp ứng mong ước của các gia đình có con tự kỷ là được đưa con ra phố, để con mình vào nhịp sống thường nhật, và có một ngày hội để con được biểu diễn, được xem các tiết mục văn nghệ, được gặp gỡ nhau.

Ngày hội ấy còn là dịp để các phụ huynh và các giáo viên làm việc trong lĩnh vực giáo dục trẻ đặc biệt có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ thông tin, hỗ trợ và động viên nhau.

Đây chỉ là một trong số nhiều hoạt động vì cộng đồng mà NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức thường xuyên trong nhiều năm qua như đưa sách về vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, tặng sách đến các không gian đọc cộng đồng và các không gian đọc do những người khuyết tật quản lý, tổ chức các buổi trò chuyện chuyên đề và trao tặng sách tới các trại giam.

Đại diện NXB cho biết những năm gần đây, trung bình mỗi năm NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức khoảng 50 sự kiện khuyến đọc. Năm 2022, một Quỹ sách Cộng đồng cũng đã được NXB Phụ nữ Việt Nam cho ra mắt, từ đó nhận được sự đồng hành của nhiều cá nhân, tổ chức để có được nhiều chương trình trò chuyện khuyến đọc và tặng sách tới cộng đồng.

Điểm đặc biệt, không chỉ khuyến đọc ở vai trò của một đơn vị xuất bản mà nhiều cán bộ của NXB Phụ nữ Việt Nam cũng luôn mang trong mình một tình yêu với sách và truyền lửa đọc ấy đến xung quanh. Như một cán bộ truyền thông của NXB Phụ nữ Việt Nam đã thành lập Quỹ Khuyến đọc trong nhóm facebook “Mạng lưới cha mẹ” với mong muốn quyên góp sách tặng của nơi có sách tới nơi cần sách, quyên góp tiền ủng hộ mua sách, giá sách, các trang thiết bị liên quan tới việc đọc sách, và góp phần thúc đẩy văn hóa đọc trong cộng đồng.

Hướng tới cộng đồng bằng Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương, năm vừa qua Công ty sách Chibooks hoạt động mạnh mẽ với dự án xây dựng 300 tủ sách thư viện miễn phí vào các trường học trên cả nước, từ tiểu học, THCS, THPT đến các trường cao đẳng, đại học. Đây là dự án đã được triển khai từ năm 2011 đến nay với tổng kinh phí ước tính 12 tỷ đồng nhằm nâng cao ý thức đọc sách trong cộng đồng. Đọc sách để chúng ta thêm hiểu và yêu thương con người, mở rộng cánh cửa tâm hồn ra với thế giới xung quanh. Chibooks mong muốn dự án sẽ lan tỏa ảnh hưởng sâu rộng về ý thức đọc sách đến học sinh từ tiểu học, THCS, gieo mầm tìm hiểu, khát khao khám phá, mở rộng trí tưởng tượng và tri thức cho các em thông qua sách vở.

Dịch giả Nguyễn Lệ Chi, Giám đốc Công ty sách Chibooks, cho biết: “Riêng năm 2023, Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương đã trao tặng 32 tủ sách thư viện với 14.242 bản sách, tổng trị giá trên 1,61 tỷ đồng, trong đó gồm 14 tủ sách thư viện cho các trường học và trao tặng sách tới 18 thư viện cộng đồng, 15 thư viện của 15 nhà văn hóa bản”.

Với hoạt động tặng sách cho học sinh tại các trường học ở những nơi chưa đủ điều kiện để thiết lập tủ sách, chương trình “Sách đến tay em” là một trong những Dự án của Câu lạc bộ Vườn yêu thương Thái Hà được triển khai từ cuối tháng 7/2022. Bên cạnh đó, Thái Hà books cũng tổ chức nhiều chương trình khuyến đọc như “Tết sách”, “Sách đồng hành cùng sinh viên”, “ATM sách miễn phí – phiên bản 2”, “Đổi sách lấy cây – gây quỹ khuyến đọc”…

Omega Plus books chọn hướng đi là hỗ trợ xây dựng tủ sách cộng đồng cho các doanh nhân muốn xây dựng thư viện cho cộng đồng, doanh nghiệp, cho các cá nhân, nhóm muốn xây dựng thư viện cho gia đình, quê hương, dòng họ, thư viện cho bệnh viện hay thư viện cho trường học… Danh mục sách là các tác phẩm kinh điển, nền tảng do Omega Plus books tuyển chọn và xuất bản ở nhiều chủ đề khác nhau từ lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới, chính trị, kinh tế, khoa học vật lý, văn học thiếu nhi, giáo dục, y học, nghệ thuật, âm nhạc…

Với NXB Kim Đồng, hoạt động khuyến đọc và trao tặng sách được tổ chức thường xuyên, liên tục như chương trình “Một triệu cuốn sách cho trẻ em nghèo”, tặng tủ sách cho các trường học ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cho cộng đồng trẻ em nghèo người Việt tại nước ngoài – những nơi còn khó khăn, không có điều kiện tiếp cận với sách vở, tài liệu trong nước; bảo trợ, thường xuyên tặng sách cho các thư viện, không gian đọc.

Mỗi đơn vị chọn một cách làm riêng nhưng điểm chung là đều hướng đến vì cộng đồng, đặc biệt với những cộng đồng còn khó khăn, nhằm mang tri thức đến với lớp trẻ, lan tỏa tình yêu sách và góp phần xây dựng thói quen đọc.

Nguồn: https://znews.vn/nhung-du-an-lan-toa-tinh-yeu-sach-post1454645.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

‘Hồn Trương Ba da hàng thịt’ – Một cách tiếp cận thế hệ công chúng mới

Được phát hành

,

Bởi

Kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Tsuyoshi Sugiyama là sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới, song gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực.

Hon Truong Ba anh 1

Đạo diễn người Nhật Bản Tsuyoshi Sugiyama từng gây được dư luận ở Việt Nam với cách xử lý độc đáo hai vở kịch kinh điển Cậu Vanya (Anton Chekhov) và Hedda Gabler (Henrik Ibsen) ở Nhà hát Tuổi Trẻ. Lần này, vẫn với tư duy sân khấu độc đáo đó, anh mang đến cho bản dựng Hồn Trương Ba da hàng thịt nhiều nét lạ.

Một tổng thể những nét lạ

Cái lạ đầu tiên là hóa trang và trang phục. Tất cả nhân vật đều ăn mặc khá hiện đại và có phần được Nhật hóa. Vợ chồng con cái nhà Trương Ba như những người nông dân đâu đó bên nước Nhật. Vợ anh hàng thịt, đặc biệt là đám tiên nữ nhà trời, không khác gì những vũ nữ tân thời trong một màn tạp kỹ (nói như một ông quan thiên đình trong kịch “thiên đình gì mà như cái chợ”, thì ở bản dựng này thiên đình gì mà như sân khấu tạp kỹ). Hai ông quan liêu tùy tiện ở thiên đình là Nam Tào Bắc Đẩu trang phục như công chức, nhưng được phân biệt với người hạ giới bằng cách đội trên đầu cặp sừng trâu và sừng dê, vừa như quỷ sống vừa như đám đầu trâu mặt ngựa.

Các nhân vật phần nhiều mang điểm nhấn hóa trang bôi mặt trắng như kiểu kịch Nô của Nhật, cũng có khi là những vạch vằn vện kiểu tuồng Tàu hoặc thổ dân đâu đó. Hóa trang và phục trang gây không khí Nhật hóa và gợi liên tưởng một câu chuyện dân gian không chỉ riêng một đất nước nào.

Cái lạ nữa là đạo diễn chuyển đổi giới tính cho một số nhân vật. Đế Thích cao cờ không phải là phi giới tính như cách thể hiện của nghệ sĩ Trần Tiến trong bản dựng đầu tiên gần bốn chục năm trước, mà là một… bà, bà tiên Đế Thích.

Lý trưởng bê bối tham nhũng ngày trước là nghệ sĩ Phạm Bằng thì nay là một người đàn bà, một bà có chức có quyền và cũng không hẳn là giới tính nữ. Một số nền văn minh cổ coi thần thánh mang trong mình cùng lúc nhiều giới tính, và kẻ tham nhũng trong kịch này có lẽ cũng đa sắc như vậy.

Đạo diễn dụng công tạo ra những mảng miếng lạ, chẳng hạn trong vở Cậu Vanya, ông để cho nghệ sĩ Lê Khanh và các diễn viên khác lăn lộn trong nhem nhuốc cát bụi. Cát thật. Cát mịt mù trên sân khấu. Còn ở Hồn Trương Ba da hàng thịt, lối sử dụng các nguyên vật liệu làm đạo cụ vẫn còn đó. Cái chậu tiết anh hàng thịt hất văng ra nhuộm đỏ một mảng sân khấu. Cốc nước của bà quyền chức cũng màu máu. Xô nước mà người con dâu hắt vào cái hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt để thức tỉnh phần hồn ông Trương Ba cũng là… nước thật.

Đạo diễn không ngần ngại để cho nước lênh láng trên sàn diễn, mà theo một quan niệm sân khấu nào đó thì không nhiều mỹ cảm. Nhưng chỉ có cách tự lý giải: đó là chủ ý của riêng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama. Các động tác lên thiên đình xuống trần gian của Đế Thích và bà vợ Trương Ba là ước lệ không gian kiểu chiếu chèo nhưng cũng là phép ước lệ của sân khấu dân gian nhiều nước.

Cuộc giằng co giữa thể xác hàng thịt và linh hồn của Trương Ba được cụ thể bằng một vật kết nối như sợi dây thừng, lại cũng như những khúc dồi hoặc dây xúc xích của anh hàng thịt. Ấy vậy, người xem vừa tưởng như có thể kết luận rằng sử dụng ước lệ và biểu tượng là căn tính của đạo diễn thì lại va ngay vào những động tác hình thể quá cụ thể như động chạm cầm nắm sờ soạng. Diễn viên đã làm thật, như có dụng ý bác bỏ ước lệ mà khẳng định họ đang làm dạng kịch truyền hình trong nhà ngoài phố.

Nhiệt tình mang đến cái lạ cũng có thể đã làm cho kịch thiếu đi những khoảng lặng, những phút lắng lại, trầm sâu trong tâm tưởng và gieo vào người đọc những cảm xúc mà kịch bản đã sẵn có. Những yếu tố kỹ thuật tân thời và sự mải mê thủ pháp mảng miếng lạ có khi đã khiến cho kịch thiên về tính kỹ nghệ và duy lý.

Hon Truong Ba anh 2

Tạo hình tiên Đế Thích và bà vợ Trương Ba trong vở kịch. Ảnh: Se sẽ chứ.

Chiến trường của linh hồn và thể xác

Dù có tránh bớt liên tưởng đến cây cao bóng cả, thì cũng thấy sau mấy thế hệ của sân khấu kinh điển như Trọng Khôi, Mỹ Dung, Trần Tiến, Lan Hương (Quắm), Phạm Bằng… truyền thống dựng kịch kinh điển duy mỹ có thể đã dừng lại sau thế hệ của những Lê Khanh, Ngọc Huyền, Chí Trung, Anh Tú (và Thành Lộc ở Sài Gòn)…

Trong tình thế hiện nay, chạm đến những vở kịch kinh điển giàu tính biểu tượng và ẩn dụ, đạo diễn vẫn phải thỏa hiệp với lớp diễn viên mới để làm nên một thứ “tân cổ giao duyên” – chỉ nói về nghệ thuật diễn xuất. Phải chấp nhận pha trộn giữa động tác hình thể cách điệu và cách diễn tả thật, pha trộn lối diễn xuất giữa sân khấu và phim truyền hình. Đến thế mới thấy diễn viên đóng vai hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt nỗ lực rất nhiều mà cái gánh nặng ấy vẫn là quá sức.

Diễn viên không làm cho người xem thấy được cơn vật vã giằng giật của hồn bên trong xác, một khi hình thể khô cứng thiếu sinh sắc. Đài từ các diễn viên vốn quen được hỗ trợ khuếch âm của các phương tiện âm thanh hiện đại, khi bị khước từ dùng micrô, phải dùng giọng mộc, dùng âm thanh gốc, thì nỗi hoang mang không tự tin vào giọng mình bộc lộ qua những phát âm nhả chữ thiếu tròn vành, thậm chí nhiều khi díu và dính, nhòe và hụt hơi.

Trở lại với cách xử lý của đạo diễn. Kết thúc vở kịch, hồn ông Trương Ba chấp nhận cái chết và anh hàng thịt được sống lại. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi khi xưa đã để cho anh ta vùng dậy, nhìn quanh rồi thô lỗ quát mắng cô vợ – ngựa quen đường cũ, thói xưa khó bỏ.

Nhưng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama đã xử lý cách khác. Không chỉ ông Trương Ba chết, tất cả nhân vật từ anh hàng thịt, vợ chồng con cái nhà anh cho đến gia đình Trương Ba và bạn bè, cả tiên nữ và Đế Thích đều đi những bước giật lùi, họ đi ngược không gian và thời gian, để rồi tất thảy cùng đổ xuống, cùng lăn ra chết. Mới trước đó các nhân vật còn luận về chuyện hồn nọ xác kia, hồn không cần cậy nhờ cái xác, xác cũng chẳng phải mượn hồn, giờ thì hồn nào xác nào cũng chết. Tại sao vậy? Rằng không phải chỉ có một ông Trương Ba mới phải mượn thể xác người khác? Có khi cả thế gian này đều là hồn nọ xác kia, chẳng có ai được nguyên vẹn là mình, có khi ai ai cũng đều là những thực thể lắp ghép, để mà sống với đời?

Trên cái thế gian mà hóa ra chẳng có ai nguyên vẹn, chỉ còn lại một nhạc công ôm cây đàn ghi ta, đi như trên một bãi chiến trường sau trận đấu hồn và xác. Anh ta cũng là người dẫn chuyện bằng âm thanh trong suốt vở diễn. Và những âm thanh cuối cùng được cất lên, có thể là khúc cầu siêu, cũng có thể là khúc hoan ca.

Ở bản Hồn Trương Ba da hàng thịt của Tsuyoshi Sugiyama, đài từ và hình thể của các diễn viên nếu đạt chuẩn kịch kinh điển, sẽ chuyển tải nội dung trọn vẹn, và cái trải nghiệm sân khấu lạ lùng này sẽ thật sự là cách xử lý sân khấu kinh điển có ý nghĩa cho người xem hôm nay.

Tất nhiên sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới sẽ gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực. Nhật hóa và quốc tế hóa một vở kịch Việt như vậy, không chỉ vì đạo diễn Nhật Bản nhớ quê hương, mà biết đâu Tsuyoshi Sugiyama cũng mong một ngày nào đó bản dựng này sẽ đến với người xem ở quê hương anh và cả đâu đấy bên ngoài đất Việt.

Hồn Trương Ba da hàng thịt, kịch của Lưu Quang Vũ, đạo diễn: Tsuyoshi Sugiyama, sản xuất: Nguyễn Hoàng Điệp, diễn viên của nhiều nhà hát: Chiều Xuân, Kim Oanh, Xuân Tùng, Hương Thủy, Hoàng Tùng, Mạnh Hoàng, Thanh Lê, Hirota, Trường Khang… Ba buổi công diễn tác phẩm diễn ra từ 12 đến 14/1 tại rạp Công Nhân, Hà Nội.

Nguồn: https://znews.vn/hon-truong-ba-da-hang-thit-mot-cach-tiep-can-the-he-cong-chung-moi-post1454673.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng