Connect with us

Sách hay

Nghịch lý kẻ chiến thắng – nước Mỹ hậu Chiến tranh lạnh

Được phát hành

,

Gần 3 thập kỷ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, nước Mỹ từ vị trí siêu cường duy nhất còn lại giờ đây liên tiếp gặp phải những bất ổn nội tại.

Nước Mỹ hậu chiến tranh lạnh, như cách Andrew Bacevich viết trong “The Age of Illusion” (Tạm dịch: Kỷ nguyên của ảo tưởng), như một người trúng số độc đắc của chương trình Mega Millions: Tài lộc trên trời rơi xuống, ngoài sức tưởng tượng, và ẩn chứa tiềm năng thảm họa. Mọi việc cũng không quá tệ.

Tuy nhiên, gần 3 thập kỷ sau 1991, chiến thắng ngày đó lại được tiếp nối bằng những nỗi thất vọng.

Nghich ly ke chien thang -  nuoc My hau Chien tranh lanh hinh anh 1 sieu_cuong_my_1.jpg

Nước Mỹ lao vào những cuộc chiến không hồi kết, liên tiếp gặp phải những kết quả thất vọng với hệ giá trị mình theo đuổi ngày một suy yếu ngay trong đất nước. Ảnh: AP.

Kỷ nguyên Chiến tranh lạnh kết thúc với nước Mỹ thiết lập vị thế quốc gia hùng mạnh nhất lịch sử. Lực lượng vũ trang không đâu sánh bằng, triết lý quản trị của họ dường như không đối thủ.

Thế nhưng, siêu cường này lại gặp khó khăn trong nỗ lực đánh bại từ những nhóm vũ trang bộ lạc, những nhà lãnh đạo bị cô lập mà họ xem là độc tài, đến việc tìm ra cách đối phó với một nước Nga ngày càng quyết liệt hay sự trỗi dậy của Trung Quốc trên trường quốc tế.

Giữa lúc đại dịch bùng phát, những đồng minh có thể đã kỳ vọng Mỹ đứng ra điều phối nỗ lực ứng phó toàn cầu. Thay vào đó, mọi việc đã diễn ra theo chiều ngược lại.

Nước Mỹ bất ngờ tự rơi vào vòng xoáy chia rẽ và cay độc, tích tụ dần dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Donald Trump – người đã đắc cử bằng cách bác bỏ nhiều giá trị từng đưa nước Mỹ đến với chiến thắng trong cuộc đối đầu giữa hai siêu cường.

Trong quyển sách Do Morals Matter? (Tạm dịch: Liệu đạo đức có quan trọng), Joseph Nye, cựu hiệu trưởng Trường Chính trị Kennedy của Havard, chia sẻ nhìn nhận các đời tổng thống Mỹ đã gặp khó khăn như thế nào trong việc trở thành hiện thân chuẩn mực cho đạo đức lãnh đạo.

Còn quyển The Abandonment of the West (Tạm dịch: Xa rời phương Tây), Michael Kimmage, nhà nghiên cứu cho Quỹ German Marshall, mỉa mai những mâu thuẫn trong ý tưởng “phương Tây” do Mỹ dẫn dắt.

Với The Age of Illusion, Andrew Bacevich, cựu giáo sư của Đại học Boston, đã mô tả cụ thể học thuyết hậu chiến tranh lạnh của sức mạnh Mỹ hình thành như thế nào và theo ông nó đã tàn lụi ra sao.

Dù chưa phải là lời giải cuối cùng, mỗi quyển sách vẫn cung cấp cho người đọc những những góc nhìn sâu sắc và trăn trở cho cho câu hỏi bằng cách nào thắng lợi đã trở nên chua chát.

Nghich ly ke chien thang -  nuoc My hau Chien tranh lanh hinh anh 2 Chien_tranh_lanh_1.jpg

Tổng thống Mỹ George H. W. Bush (trái) và Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev gặp nhau ở Moscow năm 1991. Ảnh: Reuters.

Phương Tây lo âu

Trước khi xét đến ứng xử luân lý của mỗi tổng thống, tính từ thời Franklin D. Roosevlet, Joseph Nye bắt đầu những lập luận xoay quanh tựa đề tác phẩm của mình: Liệu đạo đức có quan trọng.

Mục tiêu mà ông hướng đến là những nhà hiện thực trong chính sách đối ngoại, vốn lập luận mọi quốc gia dù khoát lên mình tấm áo nào đều là những chủ thể phi luân lý và đặc lợi ích của chính mình lên trước.

Joseph Nye phản biện việc phần lớn lãnh đạo Mỹ tự cho rằng họ khác biệt với những nhà lãnh đạo châu Âu đa nghi và chủ trương cân bằng quyền lực. Nye dẫn lời của Theodore Roosevelt: “Sự hữu ích của chúng ta với nhân loại tùy thuộc vào việc chúng ta kết hợp quyền lực với mục đích cao cả”.

Phần còn lại trong câu nói nổi tiếng của tổng thống thứ 26 trong lịch sử Mỹ là: “Quyền lực không được chỉ đường bởi mục đích cao cả sẽ đồng nghĩa với tai họa, và bản thân mục đích cao cả cũng hoàn toàn vô dụng nếu thiếu quyền lực để thực hiện nó”.

Joseph Nye, nhà tư tưởng đã xây dựng học thuyết về quyền lực mềm trong thập kỷ 1980, cũng nhấn mạnh bản thân “mục đích cao cả” cũng là một thành tố quan trọng trong sức ảnh hưởng của Mỹ.

Trật tự quốc tế mà Mỹ đã xây dựng được dựa trên tính chính danh, và theo cách giải thích của Nye, tính chính danh này này dựa trên một loạt các giá trị.

Dĩ nhiên mọi tổng thống đều có những khuyết điểm riêng. Nye đã quan sát thế giới đủ lâu để không ảo tưởng về điều này. Tuy nhiên, ông nhận định chưa từng có tổng thống nào từ bỏ những ngôn từ vĩ mô hay các phân định đúng – sai trong chính sách đối ngoại như Tổng thống Donald Trump.

Cũng chưa từng có tổng thống nào nhiệt thành thể hiện tình cảm với những nhà chuyên quyền và lý tưởng sức mạnh là chân lý của trường phái Thomas Hobbes đến như vậy.

Chỉ có ông Trump và những quan chức bổ nhiệm mới tìm cách phá vỡ trật tự quốc tế mà chính những người tiền nhiệm đã xây dựng và duy trì, với ý nghĩ của Nhà Trắng rằng trật tự đó đã khiến nước Mỹ trở thành “Gulliver” bị trói buộc ở xứ sở tí hon (“Gulliverising” America).

Khác với cách Joseph Nye nhìn nhận về những nền tảng của lãnh đạo luân lý, Michael Kimmage lại cho rằng “phương Tây” không phải là một nơi chốn, mà là một loạt tư tưởng được diễn giải tại Mỹ từ cuối thế kỷ XIX khi nước này sắp tự nhận lãnh trách nhiệm của một cường quốc.

“Phương Tây” ở đây là chủ nghĩa tư bản, khoa học, Thời kỳ Khai sáng, là nền pháp quyền và nhân quyền. Tất cả được mang đến từ châu Âu bởi Christopher Columbus, một nhân vật đã được huyền thoại hóa, và đặt nền móng cho một liên minh xuyên Đại Tây Dương sau này.

Trong The Abandonment of the West, Kimmage lập luận rằng, theo góc nhìn của cánh tả, “phương Tây” từ lâu đã bị nhìn nhận là nguồn cơn của đạo đức giả và phân biệt chủng tộc. Columbus được vẽ lại như một nhà chinh phạt và là một kẻ cướp.

Martin Luther King, mục sư và nhà hoạt động nhân quyền da màu nổi tiếng tại Mỹ, từng chỉ ra thực tế đầy trớ trêu rằng: Trong khi Nhà Trắng cổ vũ tự do bầu cử ở những nước Đông Âu, một bộ phận lớn người dân Mỹ cùng thời điểm lại không được hưởng quyền lợi này.

Edward Said, một giáo sư gốc Palestin tại Đại học Columbia, lên án “những xung đột tồi tệ mang tính tối giản đã lùa mọi người vào những khối rubic thống nhất nhưng sai bản chất như ‘người Mỹ’, ‘phương Tây’ hay ‘Hồi giáo'”.

Theo lập luận của Kimmage, một khi không còn được bảo vệ bởi sự thù địch với Liên Xô, khái niệm “phương Tây” lập tức bị thất sủng và không còn là ngọn cờ đoàn kết ý thức hệ. Cánh tả ngày càng nhìn nhận khái niệm này “có lịch sử quá da trắng và nặng nam tính, đậm chất của tầng lớp tinh hoa, và là sự đồng lõa với hành động xâm lược của Âu-Mỹ trong kỷ nguyên tiền Khai sáng”.

Cánh hữu tại Mỹ thích ý tưởng về di sản văn hóa của “phương Tây”, nhưng lại không thoải mái với thực tế rằng châu Âu là một phần thiết yếu của nó. Họ cho rằng khái niệm này “quá xa rời dân tộc tính, quá nặng về nhà nước phúc lợi, quá hòa bình và nặng tính thế tục”.

Giữa lúc Trung Quốc và Nga thách thức khái niệm dân chủ, còn những tác phẩm kinh điển từ Thời kỳ Khai sáng dần biến mất khỏi danh sách đọc ở các trường đại học, theo Kimmage, khái niệm “phương Tây” không những đang lung lay mà thậm chí có lẽ đã đến hồi kết.

Kẻ thù từ bên trong

Andrew Bacevich lại đưa ra một góc nhìn khác. Ông không quan tâm đến việc những tư tưởng về “phương Tây” dần biến mất khỏi giảng đường đại học và các tổ chức tư vấn chính sách, mà tập trung vào cách khái niệm này được cổ súy hết mực bởi giới tinh hoa chính trị.

Bacevich dẫn lời Tổng thống George W. Bush phát biểu trước các thiếu sinh quân học viện quân sự Westpoint năm 2002: “Thế kỷ XX kết thúc với chỉ duy nhất một mô hình tiến bộ của nhân loại sống sót. Nó dựa trên những nhu cầu không thể tranh cãi về nhân phẩm con người, nền pháp quyền, giới hạn quyền lực nhà nước, tôn trọng phụ nữ, tài sản tư nhân, tự do ngôn luận, công lý bình đẳng và khoan dung tôn giáo”.

Tuy nhiên, trong The Age of Illusions, Andrew Bacevich phê bình rằng giới tinh hoa quân sự, chính trị và thương mại Mỹ đã quá tự tin rằng những động cơ thúc đẩy hành động của nước Mỹ vượt lên trên mọi phán xét (bất khả trì), và thế giới quan của họ chắc chắn thắng lợi.

Họ tự nhận về mình trách nhiệm làm người hành pháp toàn cầu. Họ xây dựng một hệ thống vận hành mới, thiết kế để củng cố sự ưu việt của Mỹ, dựa trên toàn cầu hóa, sức mạnh quân sự vượt trội, mưu cầu hưởng thụ cá nhân chủ nghĩa và “tổng thống chế mang tính đế quốc” (Imperial presidency).

Tuy nhiên, theo Bacevich, hệ thống này đã kéo theo hàng loạt hệ quả ngoài ý muốn. Toàn cầu hóa đáng lẽ phải tạo nên thịnh vượng, nhưng nhiều người Mỹ lại than thở về bất bình đẳng.

Sự vượt trội về quân sự kéo nước Mỹ vào những cuộc chiến không hồi kết, trả giá bằng con cái của những gia đình có thu nhập thấp. Mưu cầu hưởng thụ dẫn đến sự xói mòn về trách nhiệm và một xã hội ích kỷ, cá nhân hóa. Quyền lực tối thượng của tổng thống lại trở thành công thức cho những thất vọng của cử tri.

Tất cả hệ quả đó lên đến đỉnh điểm khi Tổng thống Donald Trump đắc cử. Trong The Age of Illusions, Bacevich nhận định sự xuất hiện của ông Trump trong Phòng Bầu dục là thông điệp bác bỏ hệ thống vận hành hậu chiến tranh lạnh và tất cả những gì mà hệ thống này đại diện.

Cách giới tinh hoa chăm chăm vào các khuyết điểm của ông Trump giúp tầng lớp này né tránh nỗi đau khi phải thừa nhận dự án hậu chiến tranh lạnh đã thất bại.

Cả ba quyển sách đều cố lý giải điều gì đã xảy ra với Mỹ sau khi Liên Xô sụp đổ thông qua tự vấn về các vấn đề nội tại, trong bản chất của chính nước Mỹ, chứ không tìm kiếm một lý do ở bên ngoài biên giới.

Qua nhiều phương diện nhìn nhận, các tác giả đều ít nhiều chỉ trích Tổng thống Trump. Trong khi Joseph Nye nghi ngờ về giá trị luân lý của nhà lãnh đạo, Michael Kimmage xem ông Trump là tổng thống Mỹ “bài xích” phương Tây đầu tiên.

Trong khi đó, theo nhận định của Andrew Bacevich, dù không thể đi đến định nghĩa về nước Mỹ thời hậu Chiến tranh lạnh thông qua trường hợp của Tổng thống Trump, siêu cường này cũng không thể quay đầu được nữa.

Đó cũng là bài học cho cựu phó tổng thống Joe Biden, ứng viên tranh cử tổng thống năm nay của đảng Dân chủ, vốn đang khơi gợi những cảm giác rằng ông sẽ đưa nước Mỹ trở lại như xưa.

Thế giới ẩn sau ‘Tiger King’ – lý do ở Mỹ có nhiều hổ Hiện nay, có khoảng 5.000-15.000 hổ nuôi ở Mỹ. Các chuyên gia cho rằng việc lai giống hổ tràn lan khiến gen của chúng không còn giống với hổ hoang dã nữa.

Nguồn: Zing (https://news.zing.vn/nghich-ly-ke-chien-thang-nuoc-my-hau-chien-tranh-lanh-post1071194.html)

Sách hay

Tại sao cần điện hạt nhân?

Được phát hành

,

Bởi

Trong hai cuốn sách về năng lượng, khí hậu, hai tác giả Richard Rhodes và Bill Gates đánh giá điện hạt nhân là nguồn năng lượng phát thải thấp, quan trọng với hành trình tiến đến Net Zero.

Theo ước tính của Liên hợp quốc, dân số thế giới sẽ đạt khoảng 10,4 tỷ người vào năm 2100, tức tăng hơn 25% so với hiện nay. Không chỉ quy mô dân số gia tăng, mà mức sống cũng ngày càng tăng cao, chuyển từ sinh tồn sang thịnh vượng.

Điều này đặt ra một trong những thách thức lớn nhất của thế kỷ 21: Làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong khi vẫn đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng để phát triển của nhân loại.

Khoa học cho thấy để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu và bảo tồn một hành tinh phù hợp cho sự sống, nhiệt độ toàn cầu phải giới hạn mức tăng không quá 1,5°C so với trước thời kỳ công nghiệp. Hiện tại, Trái đất đã nóng hơn khoảng 1,2°C so với cuối những năm 1800 và lượng khí thải vẫn tiếp tục tăng.

Để giữ mức nóng lên toàn cầu không quá 1,5°C (như đã nêu trong Thỏa thuận Paris), lượng khí thải phải giảm 45% vào năm 2030 và đạt mức phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050. Điều này đòi hỏi một cuộc cách mạng triệt để trong các phương thức sản xuất, tiêu thụ và di chuyển của con người.

Ngành năng lượng là nguồn phát thải khoảng 3/4 lượng khí nhà kính hiện nay và nắm giữ chìa khóa để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của biến đổi khí hậu. Thay thế năng lượng gây ô nhiễm từ than, khí đốt và dầu bằng nguồn năng lượng tái tạo như gió hoặc Mặt trời sẽ làm giảm đáng kể lượng khí thải carbon.

Tính đến tháng 6/2024, 107 quốc gia, chiếm khoảng 82% lượng khí thải nhà kính toàn cầu, đã thông qua các cam kết phát thải ròng bằng 0 với thời hạn đạt mục tiêu khác nhau. Việt Nam đã phê duyệt Thoả thuận Paris về biến đổi khí hậu vào năm 2016, cam kết đạt Net Zero vào năm 2050.

Nhằm đáp ứng nhu cầu điện về dài hạn, đồng thời hướng đến thực hiện cam kết trên, mới đây Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Chính phủ đã đề xuất cấp có thẩm quyền tái khởi động dự án điện hạt nhân, phát triển mạnh điện gió ngoài khơi.

Trong hai cuốn sách Thảm họa khí hậuNăng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, các tác giả chỉ ra những ưu và nhược điểm của năng lượng hạt nhân, lý giải vì sao các quốc gia nên triển khai nguồn năng lượng này.

Điện hạt nhân là thiết yếu để tiến tới Net Zero

Trong Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân, Richard Rhodes so sánh: chuyển từ than đá sang khí đốt tự nhiên là quá trình khử carbon, còn từ than đá sang điện hạt nhân là khử carbon triệt để. Bởi lẽ khí đốt tự nhiên giảm được lượng CO2 khoảng một nửa so với đốt than; còn điện hạt nhân chỉ tạo ra khí nhà kính trong lúc xây dựng, khai thác, xử lý nhiên liệu, bảo trì và ngừng hoạt động – tương tự với điện Mặt trời. Điện hạt nhân và điện Mặt trời đều chỉ tạo ra khoảng 2% đến 4% lượng CO2 so với nhà máy nhiệt điện chạy than và khoảng 4% đến 5% so với nhà máy điện chạy bằng khí đốt tự nhiên.

Trong Thảm họa khí hậu, Bill Gates chỉ ra rằng không chỉ vượt trội về khả năng giảm thiểu carbon, điện hạt nhân còn được chứng minh là nguồn năng lượng được sản xuất hữu hiệu nhất trên một đơn vị vật liệu.

nang luong hat nhan anh 1

Biểu đồ minh họa đơn vị vật liệu cần để xây dựng nhà máy điện mặt trời, nước, gió, nhiệt điện, than đá, hạt nhân và khí tự nhiên trong sách Thảm họa khí hậu. Ảnh: Omega Plus/Fonos.

Cột trong biểu đồ của điện hạt nhân thấp đáng kể khi so với nguồn năng lượng từ Mặt trời, gió, nước, địa nhiệt. Điều này nghĩa là mỗi đơn vị vật liệu đầu tư cho xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt nhân, ta nhận được nhiều năng lượng hơn so với các cách khai thác điện khác.

Hơn nữa, nhà máy điện hạt nhân có công suất ổn định hơn các nguồn năng lượng khác: không phải lúc nào cũng có Mặt trời chiếu sáng, không phải lúc nào gió cũng thổi, không phải lúc nào nước cũng đổ xuống các tua-bin của đập.

Richard Rhodes lấy ví dụ Mỹ vào năm 2016: các nhà máy điện hạt nhân có hệ số công suất trung bình 92,1%, tương đương với công suất hoạt động đạt mức 336 ngày mỗi năm. 29 ngày công suất còn lại dành cho công tác bảo trì.

Trong khi đó, hệ thống thủy điện đạt 38% công suất tối đa; tua-bin điện gió đạt 34,7%; trang trại điện Mặt trời chỉ đạt 27,2%. Ngay cả các nhà máy chạy bằng than hoặc khí đốt tự nhiên cũng chỉ tạo ra điện trong khoảng một nửa thời gian của năm.

Cũng với những dẫn chứng tương tự, Bill Gates khẳng định năng lượng hạt nhân tạo ra từ phản ứng phân hạch là “nguồn năng lượng không phát thải carbon duy nhất có thể cung cấp năng lượng ổn định cả ngày lẫn đêm, qua mọi mùa, ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất và đã được chứng minh là có thể triển khai trên quy mô lớn”.

Hiện nay tại Mỹ – quốc gia sản xuất điện hạt nhân lớn nhất thế giới, khoảng 20% điện năng đến từ các nhà máy hạt nhân. Pháp là nước có tỉ trọng điện hạt nhân cao nhất thế giới, chiếm 70% sản lượng điện.

Bill Gates cho rằng nếu không sử dụng năng lượng hạt nhân thì khó thấy được tương lai loại bỏ carbon khỏi lưới điện với giá cả phải chăng. Năm 2018, phân tích gần 1.000 kịch bản đạt Net Zero tại Mỹ, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ Massachusetts nhận thấy các trường hợp chi phí thấp nhất đều cần sử dụng một nguồn điện sạch và luôn sẵn có như năng lượng hạt nhân.

Chất vấn những quan ngại về điện hạt nhân

Tuy nhiên, điện hạt nhân hiện vẫn vấp phải nhiều tranh cãi và phản đối trên thế giới. Bên cạnh quan ngại về chi phí sản xuất – đầu tư và hiệu quả kinh tế, nổi bật hơn cả là lo lắng về vấn đề an toàn.

Chỉ trong hơn 40 năm, đã có 3 tai nạn hạt nhân khiến thế giới bàng hoàng. Sự cố Three Mile tại Pennsylvania (Mỹ) vào năm 1979 phá hủy lò phản ứng nhưng không phá hủy cấu trúc cách ly bằng thép và bê tông, chỉ phát tán lượng phóng xạ tối thiểu vào khí quyển.

Vụ tai nạn tại Chernobyl năm 1986, đã phá hủy lò phản ứng (lò này bị thiếu cấu trúc cách ly). Lò phản ứng cháy mất kiểm soát trong 14 ngày và phát tán lượng phóng xạ đáng kể vào không khí.

Thảm họa hạt nhân Fukushima (Nhật Bản) xảy ra vào tháng 3/2011 sau một trận động đất và sóng thần lớn. Sóng thần làm ngập hệ thống cung cấp điện và hệ thống làm mát của ba lò phản ứng, khiến chúng tan chảy và nổ tung, phá vỡ cấu trúc cách ly.

nang luong hat nhan anh 2

Sách Năng lượng: Lịch sử nhân loại từ than củi tới hạt nhân Thảm họa khí hậu.

Những vụ tai nạn kể trên đã hướng sự quan tâm với vấn đề hạt nhân chủ yếu tập trung vào mặt rủi ro. Tuy nhiên, cả Richard Rhodes và Bill Gates đều lập luận rằng nếu nhìn rộng ra, rủi ro an toàn của điện hạt nhân thấp hơn so với các nguồn năng lượng khác.

Theo báo cáo đệ trình lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) vào tháng 6/2011, không tìm thấy ảnh hưởng có hại cho sức khỏe với 195.345 cư dân sống ở khu vực lân cận của nhà máy Fukushima Daiichi sau khi họ được kiểm tra sức khỏe vào cuối tháng 5/2011. Tất cả 1.080 trẻ em xét nghiệm phơi nhiễm tuyến giáp cho thấy kết quả trong giới hạn an toàn.

Đến tháng 12, chính quyền kiểm tra sức khỏe cho khoảng 1.700 cư dân đã được sơ tán từ ba thành phố cho thấy hai phần ba đã bị phơi nhiễm phóng xạ bên ngoài trong giới hạn quốc tế bình thường là 1 mSv/năm, 98% là dưới 5 mSv/năm và mười người bị phơi nhiễm với hơn 10 mSv.

Không có sự phơi nhiễm lớn nào với cộng đồng, cũng không có ca tử vong nào do phóng xạ, nhưng có đến có 761 ca tử vong “liên quan đến thảm họa”, đặc biệt là người già phải rời bỏ nhà ở và bệnh viện vì lệnh sơ tán bắt buộc và các biện pháp phòng tránh phóng xạ khác.

“Trong tất cả công nghệ năng lượng quy mô lớn, ngành hạt nhân có số vụ tai nạn ít nhất và số người chết ít nhất”, Richard Rhodes viết. Tác giả trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên tạp chí y khoa Lancet của Anh. Trong đó cho thấy các dự án điện hạt nhân dẫn đến nguy cơ tử nghiệp ở mức khoảng 0,019 mỗi TWh(47), phần lớn là ở giai đoạn khai mỏ, chạy tua-bin, và các giai đoạn tạo năng lượng.

Đây là con số nhỏ trong bối cảnh vận hành bình thường. Để dễ hình dung, một lò phản ứng bình thường đang vận hành ở Pháp sẽ sản xuất 5,7 TWh một năm. Tức là hơn 10 năm hoạt động liên tục mới xảy ra một tai nạn gây tử vong.

Bên cạnh đó, Richard Rhodes đưa ra những báo cáo dẫn chứng rằng những tai nạn và thiệt hại liên quan đến điện hạt nhân chủ yếu gây ra bởi lỗi trong vận hành quản lý, hơn là lỗi trong công nghệ và sử dụng.

Bill Gates ví von rằng tránh né năng lượng hạt nhân với lý do an toàn thì tương tự loại bỏ ôtô vì nguy cơ tai nạn. Mà theo ông, thực tế thì “Năng lượng hạt nhân gây thiệt hại nhân mạng ít hơn nhiều so với ôtô. Xét về khía cạnh này, nó gây ra ít cái chết hơn nhiều so với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào”.

Do đó, ông khuyến khích con người cải thiện công nghệ hạt nhân, “giống những gì chúng ta đã làm với ôtô, bằng cách phân tích từng vấn đề và tiến hành giải quyết chúng bằng sự cải tiến”.

Khép lại công trình của mình, Richard Rhodes nhận định nhân loại sẽ cần tất cả nguồn năng lượng từ gió, năng lượng Mặt trời, thủy điện, hạt nhân, khí đốt tự nhiên nếu muốn hoàn thành mục tiêu khử carbon. Mỗi hệ thống năng lượng đều có ưu và nhược điểm riêng, nhưng có lẽ như Bill Gates nghĩ, quan trọng nhất là một kế hoạch cụ thể để phát triển các lưới điện mới – với khả năng cung cấp điện không carbon ổn định, giá cả phải chăng và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu sử dụng.

Đọc được sách hay, hãy gửi review cho Tri Thức – Znews

Bạn đọc được một cuốn sách hay, bạn muốn chia sẻ những cảm nhận, những lý do mà người khác nên đọc cuốn sách đó, hãy viết review và gửi về cho chúng tôi. Tri Thức – Znews mở chuyên mục “Cuốn sách tôi đọc”, là diễn đàn để chia sẻ review sách do bạn đọc gửi đến qua Email: [email protected]. Bài viết cần gửi kèm ảnh chụp cuốn sách, tên tác giả, số điện thoại.

Trân trọng.

Nguồn: https://znews.vn/tai-sao-can-dien-hat-nhan-post1511051.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Cuộc đời soi tỏ

Được phát hành

,

Bởi

Cuốn sách là một tuyển tập cảm động những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi nhưng đầy riêng tư giữa một nhà phân tâm học và các bệnh nhân của ông. “Cuộc đời soi tỏ” tiết lộ nghệ thuật thấu hiểu có thể soi tỏ những trải nghiệm phức tạp, rối bời và rất “con người”.

Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, phòng khám tâm lý trị liệu, trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, phòng khám tư…

Trong hai mươi lăm năm qua, tôi làm nghề phân tâm học. Tôi đã điều trị cho những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần, các phòng khám tâm lý trị liệu và tâm lý trị liệu pháp y, các trung tâm trẻ em và thanh thiếu niên, và cả phòng khám tư. Tôi đã gặp trẻ em, thanh thiếu niên và người trưởng thành để tham vấn, giới thiệu và trị liệu tâm lý một lần mỗi tuần.

Tuy nhiên, phần lớn tôi làm phân tâm học với người lớn – gặp gỡ một người trong năm mươi phút, bốn hoặc năm lần một tuần, trong suốt nhiều năm liền. Tôi đã dành hơn 50.000 giờ với các bệnh nhân. Chất liệu của công việc đó tạo nên chất liệu của cuốn sách này.

Tam ly anh 1
Ảnh minh họa.Nguồn: The Psych Professionals.

Các chương tiếp theo là những câu chuyện được rút ra từ công việc hằng ngày. Chúng có thật, tuy nhiên tôi đã chỉnh sửa mọi chi tiết nhận dạng vì mục đích bảo mật.

Lúc này hay lúc khác, phần lớn chúng ta từng cảm thấy bị mắc kẹt bởi chính suy nghĩ và hành động do mình tạo ra, bị cuốn vào những thôi thúc hoặc lựa chọn ngu ngốc của bản thân; bế tắc trong những bất hạnh hoặc sợ hãi; bị cầm tù bởi chính lịch sử của bản thân.

Ta cảm thấy không thể bước tiếp nhưng vẫn luôn tin rằng phải có một con đường. “Tôi muốn đổi thay, nhưng không muốn thay đổi”, một bệnh nhân từng nói với tôi với vẻ hoàn toàn “vô tội”. Vì công việc của tôi là giúp mọi người thay đổi, cuốn sách này nói về sự thay đổi. Và bởi vì thay đổi và mất mát có mối liên hệ sâu sắc – không thể thay đổi mà không có mất mát – nỗi mất mát ám ảnh cuốn sách này.

Triết gia Simone Weil miêu tả cách hai tù nhân trong phòng giam liền kề học cách nói chuyện với nhau bằng cách gõ lên tường trong một thời gian dài. “Bức tường chính là thứ ngăn cách họ, nhưng nó cũng là phương tiện giao tiếp của họ,” bà viết. “Mọi sự chia cắt đều là một kết nối”.

Cuốn sách này nói về bức tường đó. Về khát khao trò chuyện, thấu hiểu và được hiểu của chúng ta. Nó cũng là việc lắng nghe nhau, không chỉ là ngôn từ mà còn là khoảng cách giữa chúng. Những gì tôi miêu tả ở đây không diễn ra như một phép màu. Nó là một phần của đời sống hằng ngày – ta gõ, ta lắng nghe.

Nguồn: https://znews.vn/nha-phan-tam-hoc-danh-50000-gio-gap-benh-nhan-post1511767.html

Tiếp tục đọc

Sách hay

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Được phát hành

,

Bởi

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Henrik Fexeus anh 1Henrik Fexeus anh 2

Hướng dẫn thực hành để tạo thiện cảm

Đọc Vị chính là khám phá các công cụ tạo thiện cảm khi giao tiếp, chẳng hạn như ngôn ngữ cơ thể; tông điệu của giọng nói; sự nhất quán giữa lời nói và hành động cho đến mức năng lượng khi đưa ra ý kiến cá nhân. – Tải ngay ứng dụng Voiz FM tại: voiz.vn/download để nghe trọn vẹn nội dung sách!

Nghệ thuật Đọc vị bất kỳ ai

Nguồn: https://znews.vn/nghe-sach-nghe-thuat-doc-vi-bat-ky-ai-biet-nguoi-biet-ta-tram-tran-tram-thang-post1510522.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng