Connect with us

Xuất Bản

Trận đại dịch là lời nhắc nhở về một điều đã bị đánh mất từ lâu

Được phát hành

,

“Trong cuộc tái xây dựng một thế giới đổ vỡ, chúng ta sẽ có cơ hội chọn một đời sống ít vội vã hơn”.

Đại dịch do virus corona chủng mới đã kéo theo một cuộc thí nghiệm khổng lồ. Lần đầu tiên trong lịch sử đương đại, nhân loại đối mặt một trận dịch có tác động trên quy mô lớn đến vậy. Với hơn hai triệu ca nhiễm bệnh và 145.000 trường hợp tử vong, Covid-19 đã khiến 2/3 dân số thế giới bị đặt vào các lệnh phong tỏa và giãn cách xã hội, dù ở mức độ khác nhau.

Các xã hội hiện đại phải gác lại phần lớn kế hoạch du lịch và gặp gỡ, trong khi những người đã quen với một thế giới kết nối cao phải tìm cách thích nghi với một thế giới hạn chế tương tác vật lý. Với những người may mắn không phải đứng ra tuyến đầu chống dịch và đủ điều kiện rút vào căn nhà của mình, đại dịch mang đến cho họ cơ hội một lối sống mới.

Hoặc cũ – một lối sống đã mất đi từ lâu, theo bài viết đăng trên theAtlantic, thể hiện quan điểm của tác giả Alan Lightman, một tác gia kiêm nhà vật lý học hiện làm việc tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), Mỹ.

Zing dịch lại bài viết này.

Khoảng năm 1600, khí hậu ở phần lớn châu Âu trở nên khá mát mẻ, trong giai đoạn sau cùng của cái gọi là Kỷ Tiểu Băng Hà.

Trên thực tế, giai đoạn này kéo dài 300 năm. Mùa đông thì lạnh đến tàn nhẫn còn mùa hè thì ẩm ướt và se lạnh, làm suy yếu đáng kể mùa sinh trưởng của muôn loài. Mùa màng thất bát. Con người đói kém. Nhưng chính sự biến đổi khí hậu này đã buộc giới ngư dân Anh, Pháp và Hà Lan cải tiến thuyền bè, cho phép họ đánh bắt cá xa hơn về phía tây và chịu được những chuyến đi dài ngày trên biển cả hung tợn. Không nghi ngờ gì, một vài kỹ thuật đóng tàu mới thời đó đã tạo ra những con tàu của ngày hôm nay.

Tran dai dich la loi nhac nho ve mot dieu da bi danh mat tu lau hinh anh 1 2020_03_29T124210Z_189798561_RC2OTF9WGDPB_RTRMADP_3_HEALTH_CORONAVIRUS_JORDAN_SPORTS_1_1_.jpg

Khi dịch bệnh nổ ra và các lệnh giãn cách xã hội, hạn chế di chuyển được ban hành, hàng tỷ người trên thế giới làm quen với một thực tại mới: làm việc và sinh hoạt tại nhà, gác lại các cuộc gặp gỡ, du lịch. Trong ảnh, một người đàn ông ở Amman, Jordan, đang tập theo lớp yoga online. Ảnh: Reuters.

Sự đổi mới thường trỗi dậy từ những thời kỳ ngặt nghèo. Trong những tuần qua, chúng ta đã chứng kiến những phát kiến đáng hoan nghênh như thế nảy mầm từ cuộc khủng hoảng kinh hãi của virus corona. Chẳng hạn, hãy thử nhìn vào nhiều nền tảng dạy học trực tuyến mới, hay việc sử dụng máy đo nhiệt thông minh giá rẻ kết nối Bluetooth để gửi trạng thái sốt và vị trí của một người đến một cơ sở dữ liệu từ xa, hay thành viên dàn nhạc giao hưởng Toronto trình diễn cùng nhau từ 29 địa điểm khác nhau nhờ điện thoại thông minh.

Trong những thời khắc gian khó, sự đổi mới có thể diễn ra trong thói quen của trí não lẫn trong những công nghệ mới. Đại dịch Covid-19 đáng sợ có lẽ cũng đang tạo ra một sự thay đổi như thế – bằng cách buộc đa số chúng ta sống chậm lại, để giành nhiều thời gian chiêm nghiệm bản thân hơn, tránh xa những huyên náo và căng thẳng của thế giới. Khi có nhiều thời gian tĩnh lặng hơn, có nhiều riêng tư hơn, nhiều tĩnh tại hơn, chúng ta mới có cơ hội suy ngẫm xem mình là ai, cả với tư cách cá nhân lẫn xã hội.

Những thói quen của trí não và của lối sống không dễ mà thay đổi. Chúng ta thường trượt vào những thói quen của cuộc sống mà không hay biết, chẳng hạn như trở nên quá quen với việc sống trên một con phố ồn ào đến nỗi không còn nhớ nổi khu phố trước đây của mình cùng một thời yên ắng. Cần phải có một thế lực mạnh mẽ nào đó giáng xuống để giúp đánh thức chúng ta khỏi cơn mê. Và giờ đây chúng ta đã bị đánh thức. Chúng ta đang có cơ hội để nhận ra: Chúng ta đã và đang sống quá gấp. Chúng ta đã bán bản ngã của mình cho con quỷ mang tên tốc độ, hiệu quả, tiền bạc, siêu kết nối và “tiến bộ.”

Kể từ cuộc cách mạng công nghiệp, nhịp sống con người đã luôn bị thúc đẩy bởi tốc độ thương mại và kinh doanh. Và ngược lại, tốc độ kinh doanh bị thúc đẩy bởi tốc độ truyền thông.

Trong những năm 1830, thiết bị truyền thông nhanh và mới nhất là máy điện tín, vốn có thể truyền tải thông tin với tốc độ 3 bit/giây. Tốc độ này tăng lên khoảng 1.000 bit/giây vào giữa những năm 1980 với sự ra đời của mạng Internet. Ngày hôm nay, tốc độ này là 1.000.000.000 (một tỷ) bit/giây.

Kết quả là sự gia tăng năng suất nơi công sở, kết hợp với phương trình “thời gian là tiền bạc” đã dẫn tới sự nhận thức sâu sắc về cách sử dụng thời gian phục vụ cho mục đích và thương mại của chúng ta.

Kết quả là chúng ta đã tạo ra một lối sống điên loạn mà trong đó không phút giây nào bị bỏ phí. 24 giờ quý giá mỗi ngày được đẽo gọt và băm nhỏ thành từng đơn vị “hiệu quả” với mỗi đơn vị kéo dài 10 phút.

Ta bị kích động và tức giận trong phòng chờ của một phòng khám nếu phải đợi từ 10 phút trở lên. Ta mất kiên nhẫn nếu chiếc máy in laser không đạt tốc độ ít nhất năm trang một phút. Ta không thể ngồi yên trên ghế trong 10 phút. Ta phải được kết nối Internet mọi lúc. Ta mang cả smartphone lẫn laptop vào kỳ nghỉ cá nhân. Ta kiểm tra email ở nhà hàng và kiểm tra tài khoản ngân hàng trực tuyến trong lúc dạo bộ trong công viên. Ta trở thành nô lệ của những cuộc hẹn “khẩn” và danh sách việc cần làm và bị nghiện sự kích thích liên tục từ thế giới bên ngoài.

Một nghiên cứu ngắn gọn nhưng ít được nhắc đến của Đại học Hertfordshire phối hợp cùng Hội đồng Anh cho thấy tốc độ đi bộ của người đi bộ tại 34 thành phố trên thế giới đã tăng 10% chỉ trong giai đoạn 10 năm từ 1995 đến 2005. Và tất cả điều này xảy ra một cách vô hình. Dần dà, tiếng ồn và tốc độ của thế giới đã gia tăng đến nỗi ta khó mà nhớ được về một kỷ nguyên thong dong và tĩnh lặng, khi ta còn có thể để tâm trí mình lang thang và suy nghĩ về những gì mình muốn nghĩ, khi ta còn có thời gian để ngẫm về những nơi ta đã đi và những gì ta tin tưởng.

Tran dai dich la loi nhac nho ve mot dieu da bi danh mat tu lau hinh anh 2 2020_04_15T034920Z_20_MRPRC2XUF9C29J0_RTRMADP_TRX_HEALTH_CORONAVIRUS_SOUTHASIA_1_.jpg

Các lệnh giãn cách xã hội được ban hành khiến những con đường tấp nập bậc nhất thế giới đều trở nên im ắng. Ảnh: Reuters.

Nhưng giờ đây, ta đã được đánh thức. Lúc này, khi các công sở ngừng hoạt động, các nhà hàng, rạp chiếu phim, cửa hàng in ấn và siêu thị đóng cửa, nhiều người trong chúng ta dành 24 giờ mỗi ngày để sống trong những nơi trú ẩn nhỏ bé là ngôi nhà của mình, đột nhiên ta thấy mình cô độc với những suy nghĩ của mình. (Ở đây không bao gồm những anh hùng làm trong ngành y tế hay thương mại, những phụ huynh có con nhỏ hay những người già cần được chăm sóc liên tục). Trong nhà, thời gian và không gian đã mở ra trong tâm trí chúng ta.

Ngay cả với những người duy trì đời sống công việc bằng cách làm việc online, lịch trình làm viêc của họ cũng linh hoạt hơn. Nhu cầu đã giảm. Những thói quen thường nhật đã bị gián đoạn. Chúng ta bỗng có được một quỹ thời gian tự do, thú vị và không khuôn phép. Thảm họa khủng khiếp này đã giải phóng chúng ta khỏi ngục tù của đời sống tuân theo thời gian biểu. Ít nhất trong vài tháng, chúng ta có cơ hội được sống chậm lại. Trước kia, chúng ta đã có rất ít cơ hội để làm thế do bị cuốn theo làn sóng hung hãn của thịnh vượng và tốc độ trong thế giới hiện đại.

Với một đời sống bớt hối hả hơn, ta có thể tìm lại những gì?

Đầu tiên, như nhiều người đã lưu ý và như tôi từng thảo luận trong cuốn “In Praise of Wasting Time” (Ca ngợi thời gian lãng phí) của mình, đó đơn giản là sự hồi phục cần có cho tâm trí nhờ vào việc không làm gì cụ thể cả, từ việc suy nghĩ lan man không đầu không cuối, từ việc tìm kiếm vài khoảng lặng để tránh xa sự huyên náo của thế gian.

Tâm trí ta cần được nghỉ ngơi. Tâm trí ta cần thời gian để tĩnh lại. Nhu cầu này đã được thừa nhận suốt nhiều nghìn năm qua. Nó được mô tả sớm nhất vào năm 1.500 trước Công nguyên trong các truyền thống thiền định của Ấn Độ giáo và sau này là trong Phật giáo. Đây là một văn bản cổ trong Kinh Pháp cú: “Khi một thầy tu đi vào nơi hoang vắng và làm dịu tâm tri mình, (ông) trải nghiệm sự an lạc nhiều hơn tất cả những người khác.”

Với một mức độ tự do nhất định khỏi đời sống bị khống chế bởi thời gian, sự sáng tạo của ta cũng tăng theo. Giới tâm lý học từ lâu đã biết rằng sự sáng tạo phát triển mạnh mẽ khi không bị thời gian trói buộc. Gustav Mahler thường xuyên đi bộ ba hoặc bốn tiếng sau bữa ăn trưa rồi dừng chân để ghi lại những ý tưởng trong sổ tay của mình. Carl Jung suy nghĩ và viết lách sáng tạo nhất khi ông rời khỏi những buổi trị liệu bận rộn của mình tại Zurich để về vùng nông thôn Bollingen, Thụy Sĩ. Khi đang làm dở một dự án viết lách, Gertude Stein thường lang thang về vùng thôn quê chỉ để ngắm lũ bò.

Chúng ta và con cái của chúng ta cần nhiều thời gian hơn để chơi đùa. Trong một báo cáo lâm sáng năm 2007 của Viện Hàn lâm nhi khoa Mỹ, bác sĩ Kenneth R. Ginsburh đã viết rằng chơi đùa “cho phép con trẻ sử dụng khả năng sáng tạo của mình trong lúc phát triển óc tưởng tượng, sự khéo léo và sức khỏe thể chất, nhận thức và cảm xúc”. Tuy nhiên, “nhiều bé đang được nuôi dạy với phong cách ngày càng vội vã, áp lực, vốn có thể hạn chế những lợi ích mà chúng sẽ có được từ việc chơi đùa”.

Với sự chậm lại của cuộc sống hiện nay do virus corona gây ra, chúng ta đang chứng kiến sự bùng nổ những ý tưởng sáng tạo và đổi mới ở nhiều nơi trên thế giới. Tại Italy, những người dân bị cách ly đang hát từ ban công. Những nhà văn tạo ra những trang blog mới. Những phụ huynh phát triển những dự án nghệ thuật mới cho con cái họ.

Tran dai dich la loi nhac nho ve mot dieu da bi danh mat tu lau hinh anh 3 2020_03_22T000000Z_226074786_RC2APF9BXFUG_RTRMADP_3_HEALTH_CORONAVIRUS_USA_1_.JPG

Danny Wertheimer chơi đàn và hát từ ban công nhà mình ở Oakland, California, Mỹ vào hôm 21/3, hai ngày sau khi Thống đốc California Gavin Newsom ban bố lệnh “ở nhà” cho 40 triệu cư dân của bang. Ảnh: Reuters.

Nhưng còn một điều nữa ta có thể tìm lại. Một điều gì đó sâu kín hơn, tinh tế hơn, gần như không thể gọi tên. Đó chính là sự phục hồi nội tâm của chúng ta.

Khi nói đến nội tâm, tôi muốn nói đến cái phần giàu trí tưởng tượng, giàu mộng mơ, ham khám phá, liên tục đặt câu hỏi tôi là ai và cái gì là quan trọng đối với tôi, bên trong tôi.

Nội tâm của tôi là sự tự do đích thực của tôi. Nội tâm của tôi nối kết tôi với chính mình và mặt đất dưới chân tôi. Ánh sáng mặt trời và đất nuôi dưỡng nội tâm của tôi chính là sự cô độc và những chiêm nghiệm cá nhân của tôi. Khi lắng nghe nội tâm mình, tôi nghe thấy tiếng thở của linh hồn tôi. Những hơi thở thật nhỏ bé và mong muốn đến nỗi tôi cần đứng yên để nghe thấy chúng, tôi cần sự thong thả để nghe được chúng. Tôi cần những khoảng không yên tĩnh bao la trong tâm trí mình. Tôi cần sự riêng tư.

Nếu không có tiếng thở và giọng nói của nội tâm mình, tôi chỉ là tù nhân của thế giới điên loạn bên ngoài. Tôi là tù nhân của công việc mình làm, của tiền tôi có, của quần áo trong tủ. Tôi là cái gì? Tôi cần sự chậm rãi và tĩnh lặng để trả lời câu hỏi này.

Đôi khi, tôi hình dung nước Mỹ như một con người, và tôi nghĩ rằng, cũng như một con người, đất nước của chúng ta cũng có một nội tâm. Nếu vậy, đất nước chúng ta có nhận ra nó có một nội tâm không? Nó có nuôi dưỡng nội tâm đó không? Nó có lắng nghe tiếng thở của nó để biết nước Mỹ là ai, tin vào cái gì và đang đi đâu không?

Nếu những công dân của đất nước này, cũng như tôi, đã đánh mất một phần nội tâm mình, vậy toàn bộ đất nước này thì sao? Nếu đất nước chúng ta không thể lắng nghe nội tâm của chính nó, thì làm sao nó lắng nghe được nội tâm của những quốc gia khác? Nếu đất nước chúng ta không thể cho chính nó tự do nội tại, thì làm sao nó cho phép những quốc gia khác hưởng tự do? Làm sao nó có thể giúp nó cộng sinh một cách hòa hợp và thấu hiểu với sự tôn trọng những đất nước và nền văn hóa khác, để chúng ta có thể thật sự đóng góp vào hòa bình và sự tốt đẹp của thế giới?

Như nhiều người trong số chúng ta, tôi sẽ có cơ hội trả lời những câu hỏi này trong vài tháng tới. Nhưng một sự tự ngẫm như thế, một sự tự chăm sóc nội tâm như thế, không phải là sự kiện chỉ xảy ra một lần. Mà nó nên là một phần diễn ra liên tục của một đời sống có ý thức, nói theo cách của Henry David Thoreau. Và một đời sống có ý thức như thế đòi hỏi một sự thay đổi lâu dài về lối sống và thói quen.

Đến một lúc nào đó, virus corona sẽ biến mất hoặc ít nhất là hòa vào vô số loại virus và bệnh vặt khác. Sẽ có (và đã có) nhiều sự đau khổ và mất mát sinh mạng to lớn, những thiệt hại kinh tế nặng nề. Nhưng bi kịch đó không nên được phóng đại. Trong nhiều năm tới, chúng ta sẽ cố gắng xây dựng lại một thế giới đổ nát. Nhưng có lẽ một lối sống chậm rãi hơn trong những tháng này có thể sẽ giúp hàn gắn những mảnh vụn lại với nhau.

Và có lẽ một lối sống giàu ý thức và chiêm nghiệm hơn có thể kéo dài mãi.

Nguồn: Zing (https://news.zing.vn/tran-dai-dich-la-loi-nhac-nho-ve-mot-dieu-da-bi-danh-mat-tu-lau-post1074097.html)

Xuất Bản

Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự

Được phát hành

,

Bởi

Nhà văn là nhân chứng sáng suốt, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống.

Le Minh Khue anh 1

Nhà văn được giải Nobel Svetlana Alexievich và nhà văn Lê Minh Khuê tại liên hoan.

Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Văn chương hòa bình ở thành phố sách Pazu

Từ nhiều năm nay, có rất nhiều cuộc gặp gỡ văn chương được Hàn Quốc tổ chức, quy tụ nhiều nhà văn ở các nước đến để dự liên hoan và hội nghị về các vấn đề lớn. Các nhà văn thường đại diện cho những vùng đất ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin. Ít khi có khuôn mặt đại diện của châu Âu và Bắc Mỹ. Giáo sư Kim Jae Yong, người trong ban tổ chức các hội thảo nói với tôi: “Tôi thích đại biểu của châu Á, châu Phi và Mỹ Latin”.

Năm 2008, tôi được dự hội nghị có hàng trăm nhà văn nhiều màu da. Những cuộc gặp gỡ, những ý kiến khác nhau, nhiều tiếng nói của các miền đất. Nhưng cũng giống như các hội nghị trên thế giới, không ai biết người đang đối thoại của mình từng viết gì. Vui vẻ như vậy, và cũng biết là đã đến các cuộc gặp gỡ này thì ai cũng có “thành tựu” nào đấy, nhưng chẳng ai biết rõ về ai, cuộc sống, tài năng, công việc hàng ngày… Mà có lẽ như thế lại hay.

Nhìn thấy nhau đột nhiên thấy quý mến vì nụ cười, vì màu da, vì xa cách địa lý nhưng cũng có một công việc và cũng có sự quan tâm sâu sắc tới cuộc sống của đất nước mình.

Cuối tháng 11/2023, tôi được mời đến Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ (De-military Zone) do Quỹ văn hóa tỉnh Gyeong-gi chủ trì. Gyeong-gi là tỉnh lớn, một đơn vị hành chính rất quan trọng của Hàn Quốc, có 13 triệu dân, ở ngay cạnh Thủ đô Seoul. Liên hoan tổ chức ở thành phố xuất bản Pazu, nơi chỉ có các nhà xuất bản, và chỉ sách là sách. Khi nhận lời mời tôi nghĩ chắc liên hoan sẽ đặt trọng tâm vào vấn đề về chiến tranh. Chiến sự Nga – Ukraine đang ác liệt. Và từ mấy hôm trước chiến sự ở dải Gaza đang làm cả thế giới thấy bất an.

Đến dự liên hoan, người đầu tiên tôi chú ý nhìn là nhà văn Adania Shibli đến từ Palestine, một người phụ nữ gầy gò, khuôn mặt thông minh nhưng trông có gì đó như thảng thốt. Quê hương của cô ở dải Gaza đang hứng chịu bom đạn chết chóc, trẻ con chết hàng ngày. Tôi bắt tay cô, không nói với nhau được gì nhưng có vẻ cô thấu hiểu tình cảm của người chia sẻ.

Liên hoan có 12 tác giả nước ngoài và 38 tác giả Hàn Quốc, toàn người rất nổi tiếng. Sáu nhà văn trong ban tổ chức là các giáo sư kiêm tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà thơ. Giáo sư Kim Jae Yong rất bận rộn. Ông có những giờ giảng bài ở các trường đại học nên khi đến muộn, ông bắt tay tôi rất chặt. Chúng tôi quen nhau từ năm 2008 và khi tôi tới Hadong nhận giải thưởng văn học quốc tế mang tên văn hào Byeong-ju Lee, ở xa ông đã gọi điện chúc mừng.

Các nhà văn đến từ Nigeria, Ấn Độ, Tunisia, Peru, từ Đài Loan (Trung Quốc), Philippines, Nhật Bản đều ở độ tuổi từ 50 đến 70. Nhà văn da đen Niyi Osundare là người gốc Nigeria nhưng là công dân Mỹ, sống ở bang Louisiana. Ông cười cởi mở, thân thiện với tôi và hát một bài hát gì đó mà điệp khúc nhắc đi nhắc lại Việt Nam… Việt Nam. Ông hát say sưa và bảo với tôi: Đấy, người dân châu Phi rất yêu quý Việt Nam. Ông cùng tuổi với tôi, có ba người con trai, ông hay khoác tay tôi và bảo: Nào, các ông bà già hãy ngồi xuống! Rồi nhắc đi nhắc lại: Việt Nam – Mọi chuyện đều ổn!

Những khi như vậy lại cứ tiếc là chưa được đọc tác phẩm của họ. Cô gái người Philippines cũng vậy. Xinh đẹp, sinh động, tuổi chỉ hơn 40, cô hỏi tôi: Đột nhiên chị gặp tôi ở Hà Nội thì chị sẽ thế nào? Rồi cười tươi tắn bảo: Tôi sẽ tới Việt Nam!

Tham luận của các nhà văn đều hướng đến những vấn đề ở đất nước họ. Xung đột vùng đất, sắc tộc, cách để tồn tại ở một nơi xa lạ. Tôi nói đến những người mẹ trong chiến tranh Việt Nam. Giáo sư Kim Jae Yong bảo tham luận của tôi rất gần với tiêu chí của hội thảo. Thực ra ở Việt Nam đề tài chiến tranh gắn kết với cuộc đời của nhiều thế hệ, cho đến rất lâu sau chiến tranh vẫn chưa thể ra khỏi vùng đất mà nhà văn đề cập.

Trong bữa sáng ở khách sạn, Priya Basil, nhà văn gốc Ấn Độ hiện sống ở Đức có hỏi tôi: Thế khi tham gia chiến tranh chị sợ ai nhất? Cô ấy hỏi ai chứ không hỏi cái gì. Tôi bảo tôi sợ cái chết. Chị có căm thù người Mỹ không? Không. Lúc ấy thì không. Tôi chỉ sợ hãi. Sợ hãi choán hết tâm trí con người. Còn căm thù thì có. Nó tới dần dần. Qua nhận thức, qua thời gian.

Ở Khu Phi quân sự, biên giới giữa Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên, trong khi đứng bên này nhìn sang phía Bắc Triều Tiên, hôm ấy mù trời, không thấy rõ, chỉ thấy thấp thoáng cánh đồng lúa, nhà văn người Ấn Độ nhìn tôi cười: Việt Nam có hoàn cảnh như thế này lâu không? Tôi bảo hơn hai mươi năm. Anh ấy trầm ngâm: Ừ, cũng phải bao nhiêu xương máu…

Diễn đàn khơi gợi ký ức

Mọi người đều có vẻ cảm thông, chia sẻ với nhau. Nhất là khi lúc này bom đạn đang làm thế giới chao đảo, bất ổn. Các bản tham luận đều nói tới ước mong hòa bình cho các vùng đất. Bản tham luận của nhà văn đoạt giải Nobel nói rất nhiều đến ký ức chiến tranh, khi nước Pháp bị xâm chiếm và đội quân xâm lược có những lúc như muốn lấy lòng người dân. Tên lính Đức đưa cho tác giả, lúc ấy còn bé, mấy thanh sôcôla. Lát sau bà ngoại của ông phải giấu vứt đi, vì sợ bị đầu độc. Ông nói nhiều tới ký ức chiến tranh trong các buổi giao lưu, ông nhắc tới những cuộc đối đầu với quân Đức và ký ức bạo lực hầu như theo ông suốt đời.

Le Minh Khue anh 2

Các nhà văn quốc tế dự Liên hoan Văn chương Hòa bình ở Khu Phi quân sự DMZ Hàn Quốc, tháng 11.2023

Jean-Marie Gustave Le Clézio – một cái tên không xa lạ với độc giả Việt Nam. Tôi đã đọc tiểu thuyết Sa mạc của ông. Đọc các truyện ngắn. Đặc biệt là tiểu thuyết Sa mạc, rất khác với các tiểu thuyết có vẻ hơi nhẹ nhõm bóng bẩy ở một số nhà văn Pháp, tiểu thuyết của ông tràn đầy chi tiết, sự kiện, dày đặc tình huống về đời sống trên sa mạc, rất hấp dẫn và không dễ đọc. Ông là một trong ba nhà văn Pháp nổi tiếng, tiêu biểu, là người đã xuất bản trên 30 tác phẩm.

Le Clézio nhận giải Nobel Văn chương năm 2008. Trong lần đi thăm Khu Phi quân sự DMZ, nơi chia cắt hai miền Triều Tiên, ông ngồi giữa hai người phụ nữ, chắc một người là thư ký. Ông cao dong dỏng, thẳng thớm, rắn rỏi, dù đã ngoài 80. Trông ông rất trẻ. Chắc thời trẻ ông cực kỳ hấp dẫn. Tôi chỉ nói được với ông hai ba câu, nhờ Choi Hana dịch qua tiếng Anh. Tôi nói ở Việt Nam sách của ông nhiều người đọc nhất là thanh niên. Ông bình thản gật đầu. Tôi hỏi ông có đọc một vài nhà văn gốc Việt ở Pháp không. Ông bảo ông biết Linda Lê. Ông hỏi sách của tôi có được dịch ở Pháp không? Không, tôi chỉ được in sách ở Mỹ. Ông bảo sắp tới ông sẽ đi Mỹ, ông sẽ tìm đọc…

Tôi biết đó là điều không thể, vì ông hiếm thời gian, vì đi tìm một cuốn sách in đã lâu là điều không thể. Và vì sự quan tâm đến một nhà văn xa lạ cũng rất không thể. Nhưng tôi cảm động vì cách cư xử lịch sự của ông, nó gây nên thiện cảm, sự ấm áp và trân trọng… Những ngày ở Hàn Quốc, giữa các cuộc hội thảo và tham quan, Le Clézio rất trầm lặng, thậm chí có vẻ xa cách. Cũng không thấy nhà văn của nước nào ngồi trò chuyện với ông ngoài các cuộc hội thảo ông ngồi trên diễn đàn, trả lời vài câu hỏi, bàn tới vấn đề chiến tranh – hòa bình và điều ông nói trong hội thảo cũng như trong bản tham luận làm ta suy nghĩ.

Ông nói đến những bi kịch lớn của lịch sử thế giới, những cuộc chinh phục thuộc địa, sự tàn sát người vô tội ở châu Mỹ da đỏ, buôn bán nô lệ từ châu Phi, các cuộc chiến tranh thế giới… Không điều nào trong số đó bị văn chương ngăn chặn. Có lẽ đó không phải là vai trò của văn chương. Nhà văn không phải là nhà tiên tri hay nhà chính trị. Trên hết họ là nhân chứng… Tác phẩm của họ cộng hưởng, đôi khi khuếch đại những sự kiện xảy ra cùng thời với họ, nhưng chúng không ảnh hưởng đến tiến trình chung…

Người cùng ngồi trên diễn đàn với ông là bà Svetlana Alexievich, nhà văn người Belarus được giải Nobel Văn chương năm 2015. Tôi chú ý khuôn mặt hiền hậu của bà, nhưng cái vẻ không khoan nhượng của bà giống như một đặc điểm của các nhà văn nữ hay quan tâm đến các đề tài khó như chiến tranh, như chính trị và thuyết phục người đọc bằng quan điểm cứng rắn. Tôi chú ý tìm bà ngay từ đầu khi bà đi ra cùng hai cô thư ký. Tôi nói với bà: Tôi là nhà văn Việt Nam. Tôi đã trải qua chiến tranh.

Đôi mắt bà nhìn rất nhanh qua tôi. Như nắm bắt nhanh một ấn tượng. Cái nhìn vừa như muốn quen biết vừa như dò hỏi. Nhưng thiện cảm thì rất rõ. Chúng tôi bắt tay nhau nhưng nói chuyện lại khó. Bà nói tiếng Nga. Phải có một phiên dịch tiếng Anh biết tiếng Nga. Đành chỉ biết cười vậy!

Svetlana Alexievich gây ấn tượng với tôi từ lâu khi tôi đọc quyển Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ của bà. Sách được ông Nguyên Ngọc chuyển ngữ thu hút người đọc Việt Nam hơn vì tác giả và dịch giả cùng trải qua chiến tranh, có sự đồng cảm lớn.

Trong quyển sách của bà có một chi tiết làm tôi xúc động ngay từ lần đọc đầu tiên. Một nhóm nữ du kích bị bọn Đức bắt giam. Những tên Gestapo độc ác. Một người phụ nữ có đứa con nhỏ hơn một tuổi chưa biết nói. Khi bọn lính lôi người mẹ đi, đứa trẻ lần đầu tiên trong đời hét lên: Mẹ!

Quyển sách sắp xuất bản của bà cũng thuộc thể loại văn xuôi phi hư cấu. […]

Rất nhiều câu chuyện Svetlana nói trên diễn đàn. Cuộc chiến đang diễn ra và chuyện của bà thu hút người nghe.

Những tác giả Nobel Văn chương đến Hàn Quốc là một sự kiện. Hội trường đông nghẹt người nghe. Buổi giao lưu quan trọng có vị phó tỉnh trưởng tỉnh Gyeong-gi cầm trịch. Vị quan chức của tỉnh là người rất am hiểu văn chương. Ông dẫn dắt, gợi ý, từ đại biểu đến thính giả đều như hướng về cách gợi mở của ông. Trong dàn người đông đúc khi chụp ảnh lưu niệm, ông nhìn về phía tôi rồi tiến tới hỏi tôi ở đâu. Tôi ở Việt Nam đến! Ông cười rạng rỡ, nói như chúc mừng: Chào Việt Nam!

Nhìn cách đón tiếp trân trọng, sự nể nang của mọi người mới thấy người được giải Nobel cực kỳ hạnh phúc. Những điều ông Le Clézio nói làm tôi vừa tâm đắc vừa lấy lại niềm tin vào công việc mà lâu nay mình đã xem nhẹ. Văn chương đích thực phải được nuôi dưỡng trong môi trường tương xứng. Không khí tinh thần ô nhiễm khiến người viết chán nản, tự rẻ rúng với nghề. Nhà văn ta cũng có nhiều sự đáng bị xem thường, nhưng nếu như cần lấy lại sự tôn trọng thì cần hiểu hơn nữa cái nghề mình theo.

Bởi theo nhà văn đoạt giải Nobel mà tôi gặp, văn chương không giúp ích trực tiếp cho bất kỳ một mặt nào của cuộc sống. Văn chương không ngăn cản được chiến tranh, không ngăn cản được đói nghèo, không làm dịu được sự phẫn nộ của thiên nhiên. Nhưng nhà văn là nhân chứng sáng suốt bậc nhất, là người tỉnh táo, đủ trí tuệ để ghi lại rất nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc sống. Lịch sử chỉ nói được về sự kiện đó trong vài dòng. Nhưng nhà văn nhìn sự kiện đó thấu đáo thông qua các số phận, ghi chép lại cho các thế hệ tiếp theo.

Nhà văn – có lẽ cũng là người cần thiết.

Nguồn: https://znews.vn/lien-hoan-van-chuong-hoa-binh-o-khu-phi-quan-su-post1453329.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

Những dự án lan tỏa tình yêu sách

Được phát hành

,

Bởi

Không chỉ đầu tư nâng cao chất lượng sách, các đơn vị xuất bản còn tổ chức nhiều hoạt động nhằm lan tỏa tình yêu sách, góp phần xây dựng thói quen đọc.

Du an tang sach anh 1

“Chia sẻ yêu thương – Chào xuân mới” là chương trình Nhà xuất bản (NXB) Phụ nữ Việt Nam phối hợp cùng Ban Quản lý Phố sách Hà Nội và Câu lạc bộ Gia đình người tự kỷ Hà Nội tổ chức trong tuần này với mong muốn đáp ứng mong ước của các gia đình có con tự kỷ là được đưa con ra phố, để con mình vào nhịp sống thường nhật, và có một ngày hội để con được biểu diễn, được xem các tiết mục văn nghệ, được gặp gỡ nhau.

Ngày hội ấy còn là dịp để các phụ huynh và các giáo viên làm việc trong lĩnh vực giáo dục trẻ đặc biệt có cơ hội gặp gỡ, chia sẻ thông tin, hỗ trợ và động viên nhau.

Đây chỉ là một trong số nhiều hoạt động vì cộng đồng mà NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức thường xuyên trong nhiều năm qua như đưa sách về vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, tặng sách đến các không gian đọc cộng đồng và các không gian đọc do những người khuyết tật quản lý, tổ chức các buổi trò chuyện chuyên đề và trao tặng sách tới các trại giam.

Đại diện NXB cho biết những năm gần đây, trung bình mỗi năm NXB Phụ nữ Việt Nam tổ chức khoảng 50 sự kiện khuyến đọc. Năm 2022, một Quỹ sách Cộng đồng cũng đã được NXB Phụ nữ Việt Nam cho ra mắt, từ đó nhận được sự đồng hành của nhiều cá nhân, tổ chức để có được nhiều chương trình trò chuyện khuyến đọc và tặng sách tới cộng đồng.

Điểm đặc biệt, không chỉ khuyến đọc ở vai trò của một đơn vị xuất bản mà nhiều cán bộ của NXB Phụ nữ Việt Nam cũng luôn mang trong mình một tình yêu với sách và truyền lửa đọc ấy đến xung quanh. Như một cán bộ truyền thông của NXB Phụ nữ Việt Nam đã thành lập Quỹ Khuyến đọc trong nhóm facebook “Mạng lưới cha mẹ” với mong muốn quyên góp sách tặng của nơi có sách tới nơi cần sách, quyên góp tiền ủng hộ mua sách, giá sách, các trang thiết bị liên quan tới việc đọc sách, và góp phần thúc đẩy văn hóa đọc trong cộng đồng.

Hướng tới cộng đồng bằng Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương, năm vừa qua Công ty sách Chibooks hoạt động mạnh mẽ với dự án xây dựng 300 tủ sách thư viện miễn phí vào các trường học trên cả nước, từ tiểu học, THCS, THPT đến các trường cao đẳng, đại học. Đây là dự án đã được triển khai từ năm 2011 đến nay với tổng kinh phí ước tính 12 tỷ đồng nhằm nâng cao ý thức đọc sách trong cộng đồng. Đọc sách để chúng ta thêm hiểu và yêu thương con người, mở rộng cánh cửa tâm hồn ra với thế giới xung quanh. Chibooks mong muốn dự án sẽ lan tỏa ảnh hưởng sâu rộng về ý thức đọc sách đến học sinh từ tiểu học, THCS, gieo mầm tìm hiểu, khát khao khám phá, mở rộng trí tưởng tượng và tri thức cho các em thông qua sách vở.

Dịch giả Nguyễn Lệ Chi, Giám đốc Công ty sách Chibooks, cho biết: “Riêng năm 2023, Quỹ Chibooks Kết nối yêu thương đã trao tặng 32 tủ sách thư viện với 14.242 bản sách, tổng trị giá trên 1,61 tỷ đồng, trong đó gồm 14 tủ sách thư viện cho các trường học và trao tặng sách tới 18 thư viện cộng đồng, 15 thư viện của 15 nhà văn hóa bản”.

Với hoạt động tặng sách cho học sinh tại các trường học ở những nơi chưa đủ điều kiện để thiết lập tủ sách, chương trình “Sách đến tay em” là một trong những Dự án của Câu lạc bộ Vườn yêu thương Thái Hà được triển khai từ cuối tháng 7/2022. Bên cạnh đó, Thái Hà books cũng tổ chức nhiều chương trình khuyến đọc như “Tết sách”, “Sách đồng hành cùng sinh viên”, “ATM sách miễn phí – phiên bản 2”, “Đổi sách lấy cây – gây quỹ khuyến đọc”…

Omega Plus books chọn hướng đi là hỗ trợ xây dựng tủ sách cộng đồng cho các doanh nhân muốn xây dựng thư viện cho cộng đồng, doanh nghiệp, cho các cá nhân, nhóm muốn xây dựng thư viện cho gia đình, quê hương, dòng họ, thư viện cho bệnh viện hay thư viện cho trường học… Danh mục sách là các tác phẩm kinh điển, nền tảng do Omega Plus books tuyển chọn và xuất bản ở nhiều chủ đề khác nhau từ lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới, chính trị, kinh tế, khoa học vật lý, văn học thiếu nhi, giáo dục, y học, nghệ thuật, âm nhạc…

Với NXB Kim Đồng, hoạt động khuyến đọc và trao tặng sách được tổ chức thường xuyên, liên tục như chương trình “Một triệu cuốn sách cho trẻ em nghèo”, tặng tủ sách cho các trường học ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, cho cộng đồng trẻ em nghèo người Việt tại nước ngoài – những nơi còn khó khăn, không có điều kiện tiếp cận với sách vở, tài liệu trong nước; bảo trợ, thường xuyên tặng sách cho các thư viện, không gian đọc.

Mỗi đơn vị chọn một cách làm riêng nhưng điểm chung là đều hướng đến vì cộng đồng, đặc biệt với những cộng đồng còn khó khăn, nhằm mang tri thức đến với lớp trẻ, lan tỏa tình yêu sách và góp phần xây dựng thói quen đọc.

Nguồn: https://znews.vn/nhung-du-an-lan-toa-tinh-yeu-sach-post1454645.html

Tiếp tục đọc

Xuất Bản

‘Hồn Trương Ba da hàng thịt’ – Một cách tiếp cận thế hệ công chúng mới

Được phát hành

,

Bởi

Kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Tsuyoshi Sugiyama là sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới, song gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực.

Hon Truong Ba anh 1

Đạo diễn người Nhật Bản Tsuyoshi Sugiyama từng gây được dư luận ở Việt Nam với cách xử lý độc đáo hai vở kịch kinh điển Cậu Vanya (Anton Chekhov) và Hedda Gabler (Henrik Ibsen) ở Nhà hát Tuổi Trẻ. Lần này, vẫn với tư duy sân khấu độc đáo đó, anh mang đến cho bản dựng Hồn Trương Ba da hàng thịt nhiều nét lạ.

Một tổng thể những nét lạ

Cái lạ đầu tiên là hóa trang và trang phục. Tất cả nhân vật đều ăn mặc khá hiện đại và có phần được Nhật hóa. Vợ chồng con cái nhà Trương Ba như những người nông dân đâu đó bên nước Nhật. Vợ anh hàng thịt, đặc biệt là đám tiên nữ nhà trời, không khác gì những vũ nữ tân thời trong một màn tạp kỹ (nói như một ông quan thiên đình trong kịch “thiên đình gì mà như cái chợ”, thì ở bản dựng này thiên đình gì mà như sân khấu tạp kỹ). Hai ông quan liêu tùy tiện ở thiên đình là Nam Tào Bắc Đẩu trang phục như công chức, nhưng được phân biệt với người hạ giới bằng cách đội trên đầu cặp sừng trâu và sừng dê, vừa như quỷ sống vừa như đám đầu trâu mặt ngựa.

Các nhân vật phần nhiều mang điểm nhấn hóa trang bôi mặt trắng như kiểu kịch Nô của Nhật, cũng có khi là những vạch vằn vện kiểu tuồng Tàu hoặc thổ dân đâu đó. Hóa trang và phục trang gây không khí Nhật hóa và gợi liên tưởng một câu chuyện dân gian không chỉ riêng một đất nước nào.

Cái lạ nữa là đạo diễn chuyển đổi giới tính cho một số nhân vật. Đế Thích cao cờ không phải là phi giới tính như cách thể hiện của nghệ sĩ Trần Tiến trong bản dựng đầu tiên gần bốn chục năm trước, mà là một… bà, bà tiên Đế Thích.

Lý trưởng bê bối tham nhũng ngày trước là nghệ sĩ Phạm Bằng thì nay là một người đàn bà, một bà có chức có quyền và cũng không hẳn là giới tính nữ. Một số nền văn minh cổ coi thần thánh mang trong mình cùng lúc nhiều giới tính, và kẻ tham nhũng trong kịch này có lẽ cũng đa sắc như vậy.

Đạo diễn dụng công tạo ra những mảng miếng lạ, chẳng hạn trong vở Cậu Vanya, ông để cho nghệ sĩ Lê Khanh và các diễn viên khác lăn lộn trong nhem nhuốc cát bụi. Cát thật. Cát mịt mù trên sân khấu. Còn ở Hồn Trương Ba da hàng thịt, lối sử dụng các nguyên vật liệu làm đạo cụ vẫn còn đó. Cái chậu tiết anh hàng thịt hất văng ra nhuộm đỏ một mảng sân khấu. Cốc nước của bà quyền chức cũng màu máu. Xô nước mà người con dâu hắt vào cái hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt để thức tỉnh phần hồn ông Trương Ba cũng là… nước thật.

Đạo diễn không ngần ngại để cho nước lênh láng trên sàn diễn, mà theo một quan niệm sân khấu nào đó thì không nhiều mỹ cảm. Nhưng chỉ có cách tự lý giải: đó là chủ ý của riêng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama. Các động tác lên thiên đình xuống trần gian của Đế Thích và bà vợ Trương Ba là ước lệ không gian kiểu chiếu chèo nhưng cũng là phép ước lệ của sân khấu dân gian nhiều nước.

Cuộc giằng co giữa thể xác hàng thịt và linh hồn của Trương Ba được cụ thể bằng một vật kết nối như sợi dây thừng, lại cũng như những khúc dồi hoặc dây xúc xích của anh hàng thịt. Ấy vậy, người xem vừa tưởng như có thể kết luận rằng sử dụng ước lệ và biểu tượng là căn tính của đạo diễn thì lại va ngay vào những động tác hình thể quá cụ thể như động chạm cầm nắm sờ soạng. Diễn viên đã làm thật, như có dụng ý bác bỏ ước lệ mà khẳng định họ đang làm dạng kịch truyền hình trong nhà ngoài phố.

Nhiệt tình mang đến cái lạ cũng có thể đã làm cho kịch thiếu đi những khoảng lặng, những phút lắng lại, trầm sâu trong tâm tưởng và gieo vào người đọc những cảm xúc mà kịch bản đã sẵn có. Những yếu tố kỹ thuật tân thời và sự mải mê thủ pháp mảng miếng lạ có khi đã khiến cho kịch thiên về tính kỹ nghệ và duy lý.

Hon Truong Ba anh 2

Tạo hình tiên Đế Thích và bà vợ Trương Ba trong vở kịch. Ảnh: Se sẽ chứ.

Chiến trường của linh hồn và thể xác

Dù có tránh bớt liên tưởng đến cây cao bóng cả, thì cũng thấy sau mấy thế hệ của sân khấu kinh điển như Trọng Khôi, Mỹ Dung, Trần Tiến, Lan Hương (Quắm), Phạm Bằng… truyền thống dựng kịch kinh điển duy mỹ có thể đã dừng lại sau thế hệ của những Lê Khanh, Ngọc Huyền, Chí Trung, Anh Tú (và Thành Lộc ở Sài Gòn)…

Trong tình thế hiện nay, chạm đến những vở kịch kinh điển giàu tính biểu tượng và ẩn dụ, đạo diễn vẫn phải thỏa hiệp với lớp diễn viên mới để làm nên một thứ “tân cổ giao duyên” – chỉ nói về nghệ thuật diễn xuất. Phải chấp nhận pha trộn giữa động tác hình thể cách điệu và cách diễn tả thật, pha trộn lối diễn xuất giữa sân khấu và phim truyền hình. Đến thế mới thấy diễn viên đóng vai hồn-Trương-Ba-da-hàng-thịt nỗ lực rất nhiều mà cái gánh nặng ấy vẫn là quá sức.

Diễn viên không làm cho người xem thấy được cơn vật vã giằng giật của hồn bên trong xác, một khi hình thể khô cứng thiếu sinh sắc. Đài từ các diễn viên vốn quen được hỗ trợ khuếch âm của các phương tiện âm thanh hiện đại, khi bị khước từ dùng micrô, phải dùng giọng mộc, dùng âm thanh gốc, thì nỗi hoang mang không tự tin vào giọng mình bộc lộ qua những phát âm nhả chữ thiếu tròn vành, thậm chí nhiều khi díu và dính, nhòe và hụt hơi.

Trở lại với cách xử lý của đạo diễn. Kết thúc vở kịch, hồn ông Trương Ba chấp nhận cái chết và anh hàng thịt được sống lại. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi khi xưa đã để cho anh ta vùng dậy, nhìn quanh rồi thô lỗ quát mắng cô vợ – ngựa quen đường cũ, thói xưa khó bỏ.

Nhưng đạo diễn Tsuyoshi Sugiyama đã xử lý cách khác. Không chỉ ông Trương Ba chết, tất cả nhân vật từ anh hàng thịt, vợ chồng con cái nhà anh cho đến gia đình Trương Ba và bạn bè, cả tiên nữ và Đế Thích đều đi những bước giật lùi, họ đi ngược không gian và thời gian, để rồi tất thảy cùng đổ xuống, cùng lăn ra chết. Mới trước đó các nhân vật còn luận về chuyện hồn nọ xác kia, hồn không cần cậy nhờ cái xác, xác cũng chẳng phải mượn hồn, giờ thì hồn nào xác nào cũng chết. Tại sao vậy? Rằng không phải chỉ có một ông Trương Ba mới phải mượn thể xác người khác? Có khi cả thế gian này đều là hồn nọ xác kia, chẳng có ai được nguyên vẹn là mình, có khi ai ai cũng đều là những thực thể lắp ghép, để mà sống với đời?

Trên cái thế gian mà hóa ra chẳng có ai nguyên vẹn, chỉ còn lại một nhạc công ôm cây đàn ghi ta, đi như trên một bãi chiến trường sau trận đấu hồn và xác. Anh ta cũng là người dẫn chuyện bằng âm thanh trong suốt vở diễn. Và những âm thanh cuối cùng được cất lên, có thể là khúc cầu siêu, cũng có thể là khúc hoan ca.

Ở bản Hồn Trương Ba da hàng thịt của Tsuyoshi Sugiyama, đài từ và hình thể của các diễn viên nếu đạt chuẩn kịch kinh điển, sẽ chuyển tải nội dung trọn vẹn, và cái trải nghiệm sân khấu lạ lùng này sẽ thật sự là cách xử lý sân khấu kinh điển có ý nghĩa cho người xem hôm nay.

Tất nhiên sự tiếp cận ráo riết thế hệ người xem mới sẽ gây ra tiếng thở dài cho phần công chúng còn luyến nhớ những mẫu mực. Nhật hóa và quốc tế hóa một vở kịch Việt như vậy, không chỉ vì đạo diễn Nhật Bản nhớ quê hương, mà biết đâu Tsuyoshi Sugiyama cũng mong một ngày nào đó bản dựng này sẽ đến với người xem ở quê hương anh và cả đâu đấy bên ngoài đất Việt.

Hồn Trương Ba da hàng thịt, kịch của Lưu Quang Vũ, đạo diễn: Tsuyoshi Sugiyama, sản xuất: Nguyễn Hoàng Điệp, diễn viên của nhiều nhà hát: Chiều Xuân, Kim Oanh, Xuân Tùng, Hương Thủy, Hoàng Tùng, Mạnh Hoàng, Thanh Lê, Hirota, Trường Khang… Ba buổi công diễn tác phẩm diễn ra từ 12 đến 14/1 tại rạp Công Nhân, Hà Nội.

Nguồn: https://znews.vn/hon-truong-ba-da-hang-thit-mot-cach-tiep-can-the-he-cong-chung-moi-post1454673.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng