Connect with us

Văn mẫu 6

Cảm nghĩ về truyền thuyết “Bánh chưng, bánh giầy” (3)

Được phát hành

,

Hằng năm, mỗi độ xuân về, nhân dân Việt Nam chúng ta lại nô nức, vui vẻ chuẩn bị lá dong, xay đỗ, mua thịt, giã gạo, gói bánh. Nơi này làm bánh giầy, làng nọ gói bánh chưng. Có chỗ làm cả bánh chưng, bánh giầy để cúng tổ tiên, tế lễ trời đất, vừa đón xuân vừa cầu mong sang năm mới nhà nhà được no ấm, người người được khoẻ mạnh,… Quang cảnh ấy thường nhắc nhở mọi người nhớ lại rồi kể cho nhau nghe truyện Bánh chưng, bánh giầy. Đây là một truyền thuyết xuất hiện từ thời Hùng Vương xa xưa. Sáng tạo truyền thuyết này, cha ông ta muốn giải thích phong tục làm bánh chưng, bánh giầy trong ngày Tết – một nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá dân tộc, đồng thời nhắc nhở con cháu hãy luôn thờ kính Trời Đất, tôn quý Tổ Tiên, coi trọng tài năng, phẩm chất người nông dân trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn minh nông nghiệp của Việt Nam.

Nghe kể lại, hoặc đọc trên văn bản về truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy, chúng ta thấy nổi bật lên ba đoạn, mỗi đoạn toát ra một ý nghĩa.

1. Đoạn 1. Từ đầu đến “chứng giám” – Bài toán khó giải: vua Hùng chọn người nối ngôi.

Hoàn cảnh diễn ra cuộc lựa chọn ấy là: giặc ngoài đã yên, nhiêm vụ quan trọng bây giờ là “nhân dân no ấm” để đất nước được thanh bình, phát triển. Vua đã già yếu, cần người nối ngôi. Ngai vàng chỉ có một, trong khi vua có những hai mươi người con trai, biết chọn ai bây giờ. Điều đặc biệt là người kế vị vua không nhất thiết phải là con trưởng mà là người tài đức, hơn tất cả mười chín người kia. Thật là một “bài toán” khó giải. Từ bài toán của mình, nhà vua đã đặt ra bài toán, lời đố cho các con.

Advertisement

Người truyền rằng: “… người nối ngôi ta phải nối được chí ta… nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiện vương chứng giám”. Như vậy, nhà vua đã đặt ra hai yêu cầu để thử thách trí tuệ, tâm hồn, tài năng, hành động của các con. “Ai nối được chí ta… làm vừa ý ta”, nghĩa là phải có chí lớn, phải quyết tâm thực hiên mong muốn dân giàu nước mạnh. “Nhân lễ Tiên vương… có Tiên vương chứng giám”, nghĩa là người được lên làm vua phải biết tôn kính tổ tiên, biết tôn trọng cha mẹ, quý trọng nhân dân, có đạo đức… Trong truyện cổ dân gian nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới thường có những tình huống mang tính chất những “câu đố”. Điều vua Hùng đòi hỏi các hoàng tử đúng là một “câu đố”, một “bài toán” không dễ gì giải được.

2. Đoạn 2. Từ “Các lang ai cũng muốn…” đến “… hình tròn”: chàng Lang Liêu chăm chỉ, thông minh.

Về cảnh ngộ, Lang Liêu là “người buồn nhất”. Chàng là con thứ mười tám, thuộc hàng em áp chót. Sớm mồ côi mẹ, so với anh em, “chàng thiệt thòi nhất”.

Nhưng Lang Liêu lại là người có phẩm chất tốt. Từ khi lớn lên, ra ở riêng, chàng chăm lo việc đồng áng, trổng lúa trồng khoai. Tuy là con vua, là hoàng tử, nhưng Lang Liêu sống gắn bó với ruộng đồng, gần gũi nhân dân, mang bản chất của người lao động. Sản phẩm, kho báu của chàng chỉ là khoai, lúa đầy nhà. Chinh những hạt lúa, củ khoai ấy đã thấm mồ hôi, công sức và cả trí tuệ của chàng, góp phần tạo nên cuộc sống no ấm, hạnh phúc cho bản thân và gia đình chàng. Song, so với những vật quý trên rừng, dưới biển mà những anh em chàng đi tìm để dâng vua cha, thì “khoai, lúa tầm thường quá”. Trước “bài toán” của vua cha, Lang Liêu nhiều đêm thao thức và đầy những âu lo.

Và giữa một đêm thao thức, Lang Liêu dã gặp thần, được thần giúp đỡ. Vì sao Lang Liêu được thần giúp? Phải chăng vì chàng là một người “thiệt thòi nhất” nhưng chăm chỉ, sống gần nhân dân nhất. Thần không hướng dẫn cụ thể, mà chỉ gợi ý bóng bẩy, sâu xa: “Trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nụôi sống con người… Các thứ khác tuy ngon, nhưng hiếm, mà người không làm ra được… Hãy lấy gạo làm bánh…”. Phải chăng, đối với Lang Liêu, đây lại là một câu đố, một “bài toán” thứ hai. Bài toán thứ nhất của vua cha – đã khó. Bài toán này là của thần nêu ra, càng khó hơn. Thần là ai vậy? Đây chính là biểu tượng cho tinh khí của trời đất, là trí tuệ của nhân dân và cũng một phần là những tiềm thức, những nghĩ suy sâu lắng của chính Lang Liêu. Nếu không phải là người từng trải qua biết bao mưa nắng, từng đổ biết bao mồ hôi, công sức trên những ruộng đồng hôm sớm để làm ra hạt lúa, củ khoai thì ai có thể thấm thìa được vẻ đẹp, lợi ích, vai trò của lúa gạo đối với con người như lời thần nói với Lang Liêu? Với Lang Liêu, “bài toán” của thần từ bên ngoài dội vào, cũng là tiếng nói từ trong trí tuệ, trái tim, từ máu thịt chàng cất lên. Do đó, chàng đã mau chóng hiểu được ý thần: “Càng ngẫm nghĩ, chàng càng thấy lời thần nói đúng”. Hiểu ý thần, Lang Liêu làm theo, nhưng không máy móc, mà thật thông minh, sáng tạo. Thần chỉ nói “lấy gạo mà làm bánh” ngắn gọn thế thôi. Vậy mà Lang Liêu đã nhanh chóng giải được “bài toán” của thần. “Chàng bèn chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn hình tròn”. Từ một dữ kiện “lấy gạo làm bánh”, Lang Liêu đã thực hiện bằng biết bao động tác, kết hợp biết bao nguyên liệu để tạo ra một đáp số tuyệt vời là hai thứ bánh có hình hài khác nhau, màu sắc khác nhau, hương vị khác nhau… Thông minh quá, tài hoa quá!

3. Đoạn 3. Phần cuối của truyền thuyết: Bánh chưng, bánh giầy được tôn vinh – chàng Lang Liêu… đoạt giải.

Advertisement

Trong ngày lễ Tiên vương, sản phẩm của Lang Liêu đã làm đẹp lòng vua cha, vừa ý quần thần. Khi ăn bánh, “ai cũng tấm tắc khen ngon”, ngon và độc đáo hơn tất cả các sơn hào, hải vị, nem công chả phượng của các lang khác. “Bánh hình tròn là tượng Trời ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là tượng Đất… ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta…”. Lời nhận xét, cũng là những suy ngẫm của đức vua khi thưởng thức sản vật do Lang Liêu dâng lên thật chí lí, vừa sâu sắc vừa rộng mở đã khẳng định tấm lòng, trí tuệ và bàn tay khéo léo, sáng tạo của người con chăm chỉ, thông minh. Đó cũng là lời tôn vinh vị ngon dẻo, thơm bùi và ý nghĩa lớn lao của bánh chưng, bánh giầy – sản vật đậm hương vị Việt Nam, mang bản sắc của văn hoá nông nghiệp Việt Nam. “Bài toán” của vua Hùng đã được giải một cách trọn vẹn, tuyệt vời. Bánh chưng, bánh giầy đã đoạt giải nhất, chàng Lang Liêu – tác giả của hai thứ bánh – xứng đáng được lên ngôi vua trị vì đất nước, dẫn dắt, dạy bảo muôn dân. Lời phán truyền của đức vua – cũng chính là ý nguyện của nhân dân tôn vinh bánh chưng, bánh giầy đẹp như những bài ca, ca ngợi lao động, ca ngợi nghề nông và giá trị của văn minh nông nghiệp Việt Nam. Khen, rồi ban tặng ngôi báu cho Lang Liêu, vua Hùng đã thay mặt nhân dân đề cao một người con con hiếu thảo, biết tôn kính tổ tiên, biết lắng nghe lời thần linh dạy bảo,… Lang Liêu là biểu tượng của người anh hùng văn hoá mở đầu cho những anh hùng Việt Nam trên đồng ruộng, xóm làng Việt Nam!

Tóm lại, truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy vừa giải thích nguồn gốc bánh chưng, bánh giầy, vừa phản ánh thành tựu văn minh nông nghiệp ở buổi đầu dựng nước với thái độ đề cao lao động, đề cao nghề nông, và thể hiện tấm lòng tôn kính Trời – Đất – Tổ tiên của nhân dân ta. Truyện tuy ít yếu tố kì ảo nhưng vẫn hấp dẫn bởi nhiều chi tiết nghệ thuật tiêu biểu cho truyện dân gian: nhân vật chính Lang Liêu trải qua cuộc thi tài, được thần giúp đỡ và được nối ngôi vua. Nghe kể, hay đọc văn bản của truyện, trong chúng ta như cứ ngân nga đoạn cuối – lời vua Hùng khen hai loại bánh “Bánh hình tròn là tượng Trời… Bánh hình vuông là tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài… Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau…”. Đáng yêu làm sao, đáng thưởng thức, đáng trân trọng và tự hào làm sao bánh chưng, bánh giầy – thứ bánh tượng Trời, tượng Đất, biểu tượng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước Việt Nam. Khi đón xuân, hoặc mỗi khi được ăn bánh chưng, bánh giầy, bạn hãy nhớ tới truyền thuyết về hai loại bánh này, sẽ thấy bánh ngon dẻo, thơm, bùi, dịu ngọt lên gấp bội phần.

Tiếp tục đọc
Quảng cáo

Văn mẫu 6

Cảm nghĩ của em về đoạn văn “Sông nước Cà Mau” (1)

Được phát hành

,

Bởi

Em rất thích xem bộ phim Đất rừng phương Nam chiếu trên màn ảnh nhỏ. Đây là bộ phim được dàn dựng từ tác phẩm nổi tiếng của Đoàn Giỏi – một nhà văn chuyên viết về đề tài thiên nhiên và con người vùng đồng bằng miền Tây Nam Bộ thời kì chống Pháp xâm lược.

Tác phẩm Đất rừng phương Nam được sáng tác vào năm 1957, sau khi nhà văn Đoàn Giỏi tập kết ra Bắc. Tác giả đã đem đến cho người đọc những hiểu biết mới mẻ và phong phú, từ đó thêm yêu mến thiên nhiên và con người ở mảnh đất tận cùng của Tổ quốc. Đoạn văn Sông nước Cà Mau trích từ chương XVIII của tác phẩm nói trên.

Qua đoạn văn này, em nhận thấy rằng đất mũi Cà Mau có vẻ đẹp rộng lớn, hùng vĩ và đầy sức sống hoang dã. Chợ Năm Căn là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc sống tấp nập, trù phú, độc đáo ở vùng đất tận cùng phía Nam Tổ quốc.

Đọc đoạn văn này, em có cảm tưởng như được cùng với chú bé An (nhân vật chính của truyện) ngồi trên con thuyền len lỏi qua các kênh rạch chằng chịt như mạng nhện của rừng u Minh để rồi đổ ra sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn. Cả một không gian rộng lớn được bao phủ bởi một màu xanh bất tận: trên thì trời xanh, dưới thì nước xanh, chung quanh cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá.

Advertisement

Âm thanh đặc trưng của xứ sở này là tiếng rì rào bất tận của những khu rừng đước bạt ngàn, cùng tiếng sóng ì ầm từ biển Đông và vịnh Thái Lan ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối…

Tên đất, tên sông ở đây thật mộc mạc, giản dị: gọi là rạch Mái Giầm vì hai bên bờ rạch mọc toàn những cây mái giầm cọng tròn xốp nhẹ, trên chỉ xoà ra độc một cái lá xanh hình chiếc bơi chèo nhỏ; gọi là kênh Bọ Mắt vì ở đó tụ tập không biết cơ man nào là bọ mắt, đen như hạt vừng, chúng cứ bay theo thuyền từng bầy như những đám mây nhỏ… Gọi là kênh Ba Khía vì ở đó hai bên bờ tập trung toàn những con ba khía, chúng bám đặc sệt quanh các gốc cây… Còn như xã Năm Căn thì nghe nói ngày xưa trên bờ sông chỉ độc có một cái lán năm gian của những người tới đốn củi hầm than dựng nên, cũng như Cà Mau là nói trại đi theo chữ “tức khơ mâu” tiếng Miên, nghĩa là “nước đen”

Hình ảnh gây ấn tượng rất mạnh cho em là hình ảnh của dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá bơi hàng đàn đen trũi, nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng. Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ… loà nhoà ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai.

Chợ Năm Căn nằm sát bên bờ sông, ồn ào, đông vui, tấp nập – nơi tập trung đặc điểm của những chợ nổi họp trên mặt sông của vùng đồng bằng miền Tây Nam Bộ. Vẫn là cái quang cảnh quen thuộc của một xóm chợ vùng rừng cận biển thuộc tỉnh Bạc Liêu, với những túp lều lá thô sơ kiểu cổ xưa nằm bên cạnh những ngôi nhà gạch văn minh hai tầng, những đống gỗ cao như núi chất dựa bờ, những cột đáy, thuyền chài, thuyền lưới, thuyền buôn dập dềnh trên sóng…

Ngoài những thứ đó, chợ Năm Căn còn có một nét rất riêng mà các chợ khác không có được. Đó là cái bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh” đứng kiêu hãnh phô phang sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ quốc.

Advertisement

Chợ Năm Căn phong phú về hàng hoá, về các món ăn chứng tỏ Cà Mau là nơi đất lành chim đậu. Các dân tộc Việt, Hoa, Miên, Chà Châu Giang… chung sống thành một cộng đồng đoàn kết với đủ mọi giọng nói líu lo, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ, đã điểm tô cho Năm Căn một màu sắc độc đáo, hơn tất cả các xóm chợ vùng rừng Cà Mau.

Đất mũi Cà Mau đẹp như một bức tranh. Mảnh đất này đã đi vào thơ ca, nhạc hoạ và nổi tiếng anh dũng kiên cường trong những cuộc kháng chiến chống xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc. Cảm ơn nhà văn Đoàn Giỏi đã cho em một chuyến du lịch đầy bất ngờ và thú vị qua những trang sách tuyệt vời của ông. Mong rằng có một dịp nào đó, em sẽ được đặt chân đến nơi mà Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi qua những vần thơ:

Mũi Cà Mau: mầm đất tươi non

Mấy trăm đời lấn luôn ra biển…

Và so sánh:

Tổ quốc tôi như một con tàu

Mũi thuyền xé sóng – mũi Cà Mau.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 6

Cảm nghĩ của em về đoạn văn “Sông nước Cà Mau” (2)

Được phát hành

,

Bởi

Trải khắp mọi nẻo đường trên đất nước Việt Nam, có 54 tỉnh thành. Với mỗi nơi, ta lại cảm nhận được một nét đẹp trong sinh hoạt đời sống và con người của mỗi vùng miền. Ví như, người Hà Nội thanh tao, lịch lãm, lời nói đĩnh đạc đúng mực, hay vùng đất miền trung quanh năm mưa lũ nhưng con người nơi đây lại luôn chăm chỉ, bền bỉ và giỏi giang hơn so với bất cứ vùng đất nào, và miền Nam thì lại là thiên đường nhiệt đới. Đâu đâu cũng có những nét đẹp riêng. Và hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau cảm nhận vẻ đẹp của phía cuối cùng của Tổ quốc- mũi Cà Mau qua tác phẩm Sông nước Cà Mau (trích Đất rừng phương Nam) – tác giả Đoàn Giỏi nhé.

Cà Mau – vùng đất cuối cùng của Tổ quốc là một vùng đất bằng phẳng với rất nhiều kênh rạch và những khu rừng ngập mặn trải dài, bao trùm cả một vùng rộng lớn. Tác giả Đoàn Giỏi đã miêu tả cả nơi đây như có sự hoà quyện, giao thoa giữa những màu xanh: màu xanh lục của cỏ cây, hoa lá, của những cánh rừng ngập mặn, màu xanh trong của làn nước dưới mỗi mạn thuyền hoà lẫn cùng màu thiên thanh của cả vùng trời rộng lớn. Ngày đêm, những cơn gió mang theo âm thanh của đất trời, của núi rừng khiến cho lòng người cảm thấy như được gần gũi với thiên nhiên hơn bao giờ hết. Ở kênh rạch Cà Mau có rất nhiều những con kệnh có những cái tên khác nhau, mỗi cái tên lại có một sự tích, một đặc điểm của riêng nó. Nhưng điểm chung giữa chúng chính là những cái tên ấy vô cùng gần gũi với những người con Cà Mau.

Nổi bật ở nơi đây chính là dòng sông Năm Căn. Tác giả miêu tả dòng sông với hình ảnh rộng lớn và hùng vĩ. Ngày ngày, nước ở con sông lại đổ về biển ầm ầm như thác, mang trong mình biết bao những tài nguyên, những đàn cá lớn hàng đàn giữa những đầu sóng trắng. Thế mới biết, thiên nhiên nơi đây vẫn còn hoang sơ và trong lành tới mức nào. Bao quanh phía ngoài của dòng sông chính là rừng đước với bạt ngàn biết bao những cây đước dựng đứng như thành trì bảo vệ cả dòng sông. Từng hàng, từng hàng nối tiếp nhau như bảo bọc, như thách thức. Đây chính là vẻ đẹp hoang sơ của dòng sông và khu rừng mà hiếm nơi đâu có thể có được. Bằng con mắt tinh tế và sống động, nhà văn đã sử dụng cả thị giác và thính giác của mình để nhìn ngắm và lắng nghe sự sống trong những cánh rừng đước trải dài kia. Ông đã sử dụng rất nhiều những động từ như “thoát qua”,” đổ ra”,”xuôi giữa dòng” mà chúng ta đã có được cái nhìn tổng quát về phong cảnh ở nơi đây. Đi qua kênh rạch nơi đây cũng không phải là việc đơn giản, có những chỗ dòng nước chỉ nhẹ nhàng trôi, nhưng cũng có những nơi phải khó khăn và vất vả lắm mới có thể đi qua được. Ta cũng cảm thấy  như những con kênh rạch này cũng giống như hỉnh ảnh khái quát trong cuộc đời của mỗi người, có những khi chúng ta được dễ dàng làm những điều mình muốn nhưng cũng có những lúc mọi thứ trở nên khó khăn, vất vả. Không chỉ miêu tả cảnh vật mà tác giả còn tập trugn nhìn vào những hoạt động của con người. Đó chính là khu chợ Năm Căn và hình ảnh con người Cà Mau được tập trugn miêu tả sinh động. “chợ nằm sát sông, ồn ào, đông vui, tập nập”, với biết bao hoạt động của con người qua những chi tiết liệt kê như “những chiếc thuyền đáy, thuyền chài, thuyền lưới, thuyền buôn dập dềnh trên sóng…”. Điều đó đã đủ để cho chúng ta thấy được cuộc sống của những con người nơi đây trù phú và giàu có như thế nào. Ai tới đây cũng có thể mua được tát cả mọi thứ mà có thể không cần phải đi ra khỏi thuyền của mình, bởi những chiếc ghe nhỏ lúc nào cũng len lỏi được vào những góc nhỏ nhất để buôn bán: nào hoa quả, nào vải, nào hoa,… giúp cho không khí của chợ Năm Căn càng thêm phần tươi mới, rực rỡ.

Cả đoạn văn là một bức tranh thiên nhiên hoang sơ  nhưng cũng rất phong phú, sinh động giúp cho chúng ta càng hiểu rõ hơn về mũi Cà Mau của tổ quốc chúng ta, cho chúng ta càng thêm yêu thêm quý từng tấc đất Viêt Nam.

Advertisement

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 6

Cảm nghĩ của em về đoạn văn “Sông nước Cà Mau” (3)

Được phát hành

,

Bởi

Bài văn Sông nước Cà Mau trích từ chương XVIII truyện Đất rừng phương Nam (1987) của nhà văn Đoản Giỏi. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học thiếu nhi nước ta, được nhiều thế hệ bạn đọc nhỏ tuổi yêu thích. Tác phẩm được in lại nhiều lần, được dựng thành phim khá thành công. Bộ phim Đất Phương Nam ra đời đã chiếm được tình cảm mến mộ của công chúng. Tuy trích từ một tác phẩm truyện nhưng văn bản này có thể xem là miêu tả khá hoàn chỉnh về cảnh quan sông nước vùng Cà Mau ở cực nam của Tổ quốc.

Đoàn Giỏi miêu tả cảnh quan sông nước vùng Cà Mau theo một trình tự: bắt đầu từ những ấn tượng chung về thiên nhiên vùng đất Cà Mau, rồi tập trung miêu tả và thuyết minh về các kênh rạch, sông ngòi với cảnh vật hai bên bờ. Cuối cùng là cảnh chợ Năm Can họp ngay trên sông nước. Với trình tự tự nhiên, hợp lý những hình ảnh trong bài văn được hiện lên như trong khuôn hình của một cuốn phim, lúc lướt nhanh, lúc chậm lại, có đoạn đặc tả cận cảnh, có chỗ lùi xa bao quát toàn cảnh. Điếm nhìn để quan sát và miêu tả của người kể chuyện là “trên con thuyền” xuôi theo các kênh rạch và dừng lại ở chợ Năm Căn.

Mở đầu “cuốn phim” là đoạn văn nêu ấn tượng chung ban đầu về vùng sông nước Cà Mau. Tác giả chưa miêu tả một hình ảnh cụ thể nào mà chỉ là những hình ảnh khái quát được cảm nhận qua thị giác và thính giác của nhà văn. Đó là ấn tượng về một vùng không gian rộng lớn mênh mông với sông ngòi, kênh rạch bủa giăng chi chít như mạng nhện và tất cả được bao trùm trong màu xanh của trời của nước, và tiếng rì rào bất tận của rừng cây, của sóng và gió. “Màu xanh” đã thành một ấn tượng nổi bật: trên thì trời xanh, dưới thì nước xanh, xung quanh mình cũng chỉ toàn một sắc xanh cây lá tạo nên cái quang cảnh chỉ lặng lẽ một màu xanh đơn điệu. Và tiếng rì rào cũng thành một thứ âm thanh đơn điệu, triền miên ru ngủ thính giác: đó là tiếng rì rào bất tận của những khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đông và vịnh Thái Lan ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối….

Tiếp theo là cảnh kênh rạch vùng Cà Mau được kể lại qua những cái tên lạ và những lời giải thích thú vị: rạch Mái Giầm, kênh Bọ Mắt, kênh Ba Khía… Qua cách đặt tên, ta thấy thiên nhiên ở đây còn rất tự nhiên, hoang dã, phong phú và con người sống rất gần với thiên nhiên, nên họ giản dị, chất phác ngay từ cách đặt tên cho kênh rạch, đất đai không phải bằng những danh từ mĩ lệ, mà cứ theo đặc điểm riêng biệt của nó mà gọi thành tên.

Advertisement

Dòng sông Năm Căn hiện lên với một vẻ đẹp riêng: rộng lớn, hùng vĩ mà hoang dã. Cải nét rộng lớn, hùng vĩ được nhà văn tập trung miêu tả trong nhiều chi tiết gây ấn tượng: con sông mênh mông rộng lớn hàng ngàn thước, nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên, hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận…. Còn cái vẻ “hoang dã” thì được vẽ lại tài tình trong cái màu xanh rừng đước hai bên sông với những mức độ, sắc thái khác nhau: Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp:rày chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ… loà nhoà ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai. Những “bậc” màu xanh ấy đã miêu tả các lớp cầy đước từ non đến già, tiếp nối nhau từ bao đời nay vẫn như thế! Nhà văn không những đã quan sát tinh tế mà còn miêu tả lại một cách tài tình bức tranh phong cảnh thiên nhiên, thể hiện qua cách dùng tính từ chỉ màu sắc. Trong cách dùng động từ cũng vậy: thuyền chúng tôi cheo thoát qua kềnh Bọ Mắt, đổ ra con sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn. Các động từ “thoát qua”, “đổ ra”, “xuôi về” đều chỉ hoạt động của con thuyền nhưng không thể thay đổi trình tự các động từ ấy trong câu: “thoát qua” nói con thuyền vượt qua một nơi khó khăn, nguy hiểm; “đổ ra” diễn tả con thuyền từ kênh nhỏ ra dòng sông lớn; còn “xuôi về” là lúc con thuyền nhẹ nhàng xuôi theo dòng nước êm ả trên sông Năm Căn.

Chỉ nửa trang văn mà tác giả đã làm sống lại như thật trước mắt ta cảnh sắc của cái chợ ở vùng đất cuối cùng của Tổ quốc với vẻ đẹp riêng vừa trù phú, vừa độc đáo. Sự trù phú được thể hiện qua khung cảnh rộng lớn, tấp nập, hàng hoá phong phú, thuyền bè san sát, với các chi tiết tiêu biểu: những đống gỗ cao ngất như núi, những bến vân hà nhộn nhịp dọc dài theo sông, những ngôi nhà bè ban đêm ánh đèn măng sông chiếu rực trên mặt nước mui những khu phố nổi…. Tác giả đã sử dụng thành công biện pháp liệt kê với điệp từ “những” để gây ấn tượng về sự trù phú của chợ trên sông, “những”…, rồi lại “những”… cả đoạn văn có đến 12 chữ “những”. Tuy nhiên, không chỉ trù phú, chợ Năm Căn còn có vẻ đẹp độc đáo: “một xóm chợ vùng cận biển” có cái bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh” đứng kiêu hãnh phô trương sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ quốc. Chợ họp ngay trên sông nước với những nhà bè như những khu phố nối và những con thuyền bán hàng len lỏi mọi nơi, có thể có mọi thứ mà không cần bước ra khỏi thuyền, với sự đa dạng về màu sắc, trang phục, tiếng nói của người bán hàng thuộc nhiều dân tộc: Những người em gái Hoa kiều bán hàng xởi lởi, những người Chà Châu giang bán vải, những cụ già người Miên bán rượu, với đủ các giọng nói líu lô, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ, đã điểm tô cho Năm Căn một màu sác độc đáo, hơn tất cả các xóm chợ vùng rừng Cà Mau.

“Cuốn phim” được khép lại sau cảnh chợ Cà Mau, nhưng lại gợi ra những suy nghĩ cho người xem. Phải chăng đó là bức tranh Sông nước Cà Mau với những vẻ đẹp riêng độc đáo của nó, tác giả không chỉ đem lại cho độc giả những hiểu biết mới, những phát hiện thú vị về vùng đất này, mà quan trọng hơn, nhà văn đã truyền cho chúng tã tình yêu đất nước để ta càng thêm yêu mảnh đất cực nam của Tồ quốc, bởi một lẽ giản dị rằng: đất nước ta, nơi nào cũng đẹp, cũng đáng yêu!

(Bài làm của một học sinh giỏi Văn tỉnh Bắc Giang)

Tiếp tục đọc

Xu hướng