Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu là nhà thơ lớn nhất của dân tộc ta trong những năm đầu thế kỉ XX. Thơ Tản Đà là tiếng lòng của một cái tôi bất hoà sâu sắc với thực tại tầm thường, tù túng, muốn tìm cách thoát ly bằng mộng tưởng. Với một hồn thơ vừa phóng túng, vừa sầu mộng và rất ngông, Tản Đà đã thổi một luồng gió lãng mạn vào trong thi ca, dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kì đang sắp sửa (Hoài Thanh).
Bài thơ Muốn làm thằng Cuội nằm trong cuốn Khối tình con I, xuất bản năm 1917. Bài thơ là lời nhà thơ nói với chị Hằng trong một đêm thu và xin chị cho lên cung trăng cùng chị để tránh xa cái trần thế đáng chán này.
Bài thơ vẫn được viết theo thể thơ truyền thống của thi ca lúc bấy giờ: thể Đường luật bát cú. Đọc kĩ bài thơ, ta thấy nhà thơ vẫn tuân thủ nghiêm chỉnh những quy tắc chặt chẽ của thể thơ cổ điển nhưng không gò bó, khô cứng, mà tự nhiên, thoải mái, lời thơ mặn mà, tình tứ và rất có duyên.
Bài thơ mở đầu bằng một lời than thở, một tâm trạng, một nỗi lòng:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi
Trong câu thơ của Tản Đà, ta đọc được một nỗi sầu da diết khôn nguôi. Vì sao Tản Đà, một thanh niên đang phơi phới tuổi xuân, tài danh cũng đã nổi, lại trở nên sầu muộn như thế? Trong bài Giải sầu (1918), Tản Đà cũng đã từng viết: Từ độ sầu đến nay, ngày cũng có lúc sầu, đêm cũng có lúc sầu. Mưa dầm lá rụng mà sầu, trăng trong gió mát mà càng sầu; một mình tĩnh mịch mà sầu, đông người cười nói mà càng sầu; nằm vắt tay lên trán mà sầu, đem thơ văn ngâm vịnh mà càng sầu… sầu không có mối, chém sao cho đứt sầu không có khối, đập sao cho tan…
Phải chăng cái sầu trong thơ Tản Đà là cái sầu vẩn vơ, vô cớ? Không! Đó là nỗi buồn thời thế, buồn nhân sinh! Nỗi buồn ấy chỉ có thể có được ở những linh hồn cao khiết còn giữ được của một thời cái cốt cách vững vàng, cái phong thái thung dung (Hoài Thanh) như Tản Đà.
Cùng với nỗi buồn, Tản Đà chán ngán cuộc đời:
Trần thế em nay chán nửa rồi
Thái độ chán đời của Tản Đà là thái độ bất hoà sâu sắc với cuộc đời, với cái xã hội phong kiến thực dân ngột ngạt tầm thường. Thái độ ấy bộc lộ một cá tính mạnh mẽ của một tâm hồn thanh cao không chịu uốn mình theo một khuôn phép của xã hội, không cam chịu một thân phận nô lệ thấp hèn.
Tâm trạng của Tản Đà, suy cho cùng, là nỗi đau đớn rất đáng quý, là nỗi buồn đẹp để người đời phải ngẫm suy.
Bất hoà sâu sắc với thực tại, Tản Đà tìm cách thoát li thực tại. Khát vọng thoát li thực tại không chỉ có ở Tản Đà, mà nó là khát vọng của cả một lớp thanh niên trí thức đang sống trong không khí tù túng, u uất. Không ít nghệ sĩ đã tìm cách thoát li trong rượu, trong thơ, trong cuộc sống giang hồ tài tử, trong cõi bồng lai tiên cảnh mơ hồ của mộng tưởng. Với Tản Đà, cá tính ngông khiến thi nhân tìm cho mình một cách thoát li cũng rất đặc biệt, rất ngông:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Thật là một địa chỉ thoát li lí tưởng, vừa xa lánh hẳn cái trần thế đáng chán kia, vừa được sống trong một thế giới bồng lai tiên cảnh thành khiết, bên một thiếu nữ đẹp và bao dung như chị Hằng. Còn gì hơn thế!
Điều đáng chú ý ở đây là việc bày tỏ khát vọng thoát li. Đầu tiên là một lời ướm hỏi: Cung quế đã ai ngồi đố chửa? Tiếp đến là một gợi ý: Cành đa xin chị nhắc lên chơi. Giọng điệu thơ thật tự nhiên, vừa dí dỏm, vừa tha thiết, mặn mà, làm sao nỡ từ chối?
Chẳng biết chị Hằng đã đồng ý chưa mà nhà thơ lại thích thú đến thế khi tưởng tượng ra cảnh sống bên cạnh tiên nga:
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió, cùng mây, thế mới vui!
Vì sao Tản Đà cảm thấy sung sướng và hanh phúc đến thế? Bởi lẽ ông đã tìm được tri kỉ: có bầu, có bạn, được hoà đồng với cuộc sống: cùng gió, cùng mây, không còn phải cô đơn, buồn tủi nữa.
Thế có nghĩa là trước đây, ở trần thế, ông luôn cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn, buồn tủi: Đông người cười nói mà càng sầu? Sống giữa chốn phồn hoa đô thị nhộn nhịp, hỏi đã mấy ai hiểu được nỗi lòng thi nhân?
Chung quanh những đá cùng cây
Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm!
Nhớ lại từ thế kỉ trước, Bà huyện Thanh Quan cũng đã từng phải cô đơn, buồn tủi giữa đám tuỳ tùng, giữa những người xung quanh bà:
Một mảnh tình riêng, ta với ta!
Nếu như nữ sĩ xưa chỉ biết ôm mối sầu tủi, buồn thương trong lòng, thì Tản Đà không cam chịu, ông tìm đến với chị Hằng, cùng chị làm bầu bạn tâm tình để cho tâm hồn mình thư thái lại, để cho lòng mình rộng mở mà đón nhận thiên nhiên, đón nhận vẻ đẹp thanh tao của cuộc sống không vấy bẩn bụi trần. Mối u uất trong tâm hồn thi nhân dường như đã được giải toả.
Giấc mộng lên cung trăng của thi nhân thật lãng mạn, đầy chất đa tình và ngông. Giấc mộng thoát ly này hẳn phải khiến nhiều người ngỡ ngàng?
Trong thơ văn xưa, đã có không ít người mơ lên cung trăng, thả hồn vào cõi tiên, nhưng liệu đã có ai như Tản Đà, đem theo nguyên vẹn cái: thói phong tình bất kính như thế?
Mạch cảm xúc lãng mạn và ngông được đẩy lên cao độ bằng một hình ảnh tưởng tượng đầy bất ngờ và ý vị:
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.
Trong con mắt của Tản Đà, cõi trần bụi bặm kia giờ đây chỉ còn bé tí. Và nhà thơ bật cười thích thú với cái ý nghĩ đó. Một cái cười vừa thoả mãn, vừa mỉa mai, bao dung. Thoả mãn vì đã thực hiện được mộng tưởng thoát li, đã xa lánh được hẳn cái xã hội tầm thường, tù túng. Mỉa mai, bao dung vì cõi trần giờ đây chỉ còn bé tí, đâu có thể giam hãm được một tâm hồn đang bay bổng lên trên nó. Hai câu kết là đỉnh cao của một tâm hồn lãng mạn và ngông của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu tiên sinh.
Bài thơ khép lại trong niềm sung sướng đến mãn nguyện của thi nhân vì đã thực hiện được giấc mộng thoát li. Thế mà mấy mươi thập kỉ sau người đời vẫn còn phải bàn luận về nó.
(Theo Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương – Việt Trì – Phú Thọ)