Connect with us

Văn mẫu 9

Phân tích bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”

Được phát hành

,

Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, có nhiều bài viết về chủ đề quê hương, đất nước. Lòng yêu nước thể hiện ở mỗi bài mỗi khác, tuỳ theo cảm hứng của tác giả, song mỗi bài là một nốt nhạc trong bản giao hưởng ngợi ca Tổ quốc và nhân dân anh hùng.

Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong chiến khu tây Thừa Thiên gian khổ và ác liệt thời chống Mĩ. Trong những ngày mưa bom bão đạn ấy, bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ đã ra đời.

Bài thơ kể về người mẹ dân tộc Tà-ôi vừa địu con trên lưng vừa giã gạo để nuôi bộ đội; tỉa bắp trên nương góp phần sản xuất lương thực cho kháng chiến và mơ ước sau này sẽ được thấy Bác Hồ, ước mong con mình khôn lớn được sống trong đất nước tự do. Qua đó, tác giả ca ngợi tình yêu con thiết tha, đằm thắm và tình yêu nước sâu nặng của bà mẹ Tà-ôi.

Bài thơ có 3 khúc ru, mỗi khúc đều mở đầu bằng câu:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi

Kết thúc là lời ru của mẹ được lặp lại ở mỗi đoạn:

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi.

Mẹ thương a-kay, mẹ thương…

Con mơ cho mẹ…

Mai sau con lớn…

Trong mỗi khúc hát ru đều có hình ảnh người mẹ với công việc vất vả cùng tình cảm, ước vọng đối với đứa con và quê hương đất nước.

Mở đầu bài thơ là tiếng ru thân thương, vỗ về của nhà thơ, đưa em bé vào giấc ngủ say nồng:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi

Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ

Trong lời ru đứa con chứa chan niềm thương mến sâu xa đối với người mẹ.

Hai câu thơ sau miêu tả người mẹ trong công việc giã gạo nuôi quân:

Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ dội

Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng

Nếu câu thơ trên tả thực thì câu thơ dưới thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng giữa mẹ và con. Tác giả vừa miêu tá công việc giã gạo nặng nhọc của người mẹ, vừa miêu tả giấc ngủ chập chờn, giấc ngủ nghiêng của cu Tai trên lưng mẹ. Dường như chú bé cũng thấy được nỗi vất vả và ý nghĩa đẹp đó trong việc làm của mẹ nên hơi thở em hoà cùng hơi thở mẹ và em cố ngủ ngoan cho mẹ yên lòng.

Nếu ai đà từng chứng kiến cảnh giã gạo bằng chày trong cối gỗ của đồng bào miền núi thì mới thấy hết sự vất vả khi biến hạt thóc thành hạt gạo trắng ngần. Nhà thơ đã chọn lựa những động tác tiêu biểu để miêu tả công việc giã gạo nặng nhọc và thế hiện tình mẹ con chân chất, sâu nặng của người mẹ miền núi. Cảnh tượng mộc mạc ấy đâ làm xúc động lòng người:

Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi

Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối

Lưng đưa nôi và tim hát thành lời

Khi mẹ giã gạo, cu Tai vẫn ngủ trên lưng. Trong giấc ngủ, em vẫn cảm nhận được mồ hôi của mẹ rơi trên má em nóng hổi, cảm nhận được sự vất vả và tình yêu con thiết tha của mẹ.

Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật so sánh: đôi vai mẹ gầy làm gối cho con, lưng mẹ đung đưa làm nôi ru con ngủ và nhịp tim của mẹ hát thành lời yêu thương tha thiết. Trong giấc ngủ, lúc nào Cu Tai cũng được ấp ủ tròng hơi thở và tình thương của mẹ, được nghe mẹ hát ru. Khổ thơ đã thể hiện được tình mẫu tử thắm thiết, thiêng liêng cùng công việc vất vả của người mẹ giã gạo để nuôi con, nuôi bộ đội Giải phóng.

Nếu khổ thơ đầu là lời ru của nhà thơ thì khổ thơ thứ hai là tiếng nói tâm tình của người mẹ:

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi

Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội

Câu thơ như lời ru êm ái chất chứa yêu thương. Tình cảm mẹ con vốn đã đẹp nay càng đẹp hơn bởi nó gắn liền với tình cảm lớn lao là tình thương bộ đội, tình yêu nước. Mẹ mong trong giấc ngủ, Cu Tai sẽ mơ giấc mơ của mẹ là có nhiều gạo thật ngon để nuôi bộ đội và Cu Tai sẽ lớn lẽn thật nhanh để giúp mẹ giã gạo nuôi quân:

Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần

Mai sau con lớn vung chày lún sân…

Từ ước mơ có hạt gạo trắng ngần đến ước mơ mai sau con lớn vung chày lún sân đều chứa đựng niềm hi vọng cháy bỏng của người mẹ về đứa con sau này sẽ trở thành một thanh niên cường tráng, có ích cho nước, cho dân.

Hình ảnh người mẹ trong cảnh tỉa bắp trên nương thật đẹp và cảm động:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi

Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-Lưi

Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ

Vẫn là lời vỗ về của trái tim chan chứa thương yêu của nhà thơ, mong em bé ngủ ngon để mẹ yên tâm làm việc, nhưng ở khổ thơ này, cảm xúc da diết hơn thể hiện qua hình ảnh tương phản độc đáo: Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ. Núi thì lớn, nương bắp thì rộng mà sức mẹ có hạn. Mẹ cắm cúi, lom khom tỉa bắp, trên lưng mẹ con vẫn ngủ say. Câu thơ đã khắc sâu nổi vất vả khó nhọc của người mẹ vùng cao trong lao động sản xuất thời chống Mĩ.

Đối với những bà mẹ sớm hôm tần tảo nuôi con, dường như họ không biết mệt mỏi bởi đứa con là niềm hi vọng, là nguồn an ủi, động viên, tiếp thêm sức mạnh và nghị lực cho mẹ:

Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi

Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng.

Câu thơ lấp lánh nét đẹp cuộc đời và tình mẹ con. Biện pháp ẩn dụ trong những câu thơ này có nhiều ý nghĩa. Bắp trên nương tươi tốt nhờ ánh nắng mặt trời. Cu Tai cũng giống như mặt trời toả nắng sưởi ấm trái tim mẹ để mẹ sống tốt hơn, đẹp hơn cho đời. Em là mặt trời bé bỏng, thân yêu của mẹ.

Lời ru ở khúc ru này vẫn là tiếng nói tâm tình của người mẹ nhưng đã chứa đựng ước mơ lớn hơn:

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi

Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói

Con mơ cho mẹ hát bắp lên đều

Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…

Càng thương con, người mẹ lại càng thương bà con dân bản. Mẹ ước mơ về một ngày mai no ấm hạnh phúc, về sự trưởng thành và sức mạnh kì diệu của đứa con thân yêu.

Nếu ở hai đoạn thơ trước, tác giả miêu tả cảnh mẹ địu con trên lưng giã gạo nuôi bộ đội, địu con lên nương tỉa bắp thì ở đoạn thơ này là cảnh mẹ địu con cùng đi đánh giặc:

Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi

Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ

Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng

Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông

Mẹ địu em đi để giành trận cuối

Sự lặp lại hai câu thơ “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi, Em ngủ cho ngoan, đừng rời lưng mẹ” đã tạo nên âm điệu ngân nga, thấm dần vào người đọc một cảm xúc thân thương. Con cùng mẹ băng suối, vượt ngàn, đạp rừng xông tới. Cả nhà, cả làng, cả nước cùng đánh giặc.

Nhịp thơ sôi nổi, thôi thúc như một hành khúc lên đường. Câu kết vẽ lên hình ảnh thật xúc động:

Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường

Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.

Lời thơ khẳng định ý chí chiến đấu mãnh liệt của bà mẹ Tà-ôi nói riêng và đồng bào miền tây Thừa Thiên Huế nói chung. Lúc này, mẹ và em cùng lên đường vào Trường Sơn đánh giặc, nơi có biêt bao khó khăn vất vả, nơi cái chết và sự sống chỉ cách nhau gang tấc.

Kết thúc bài thơ vẫn là lời hát ru và ước nguyện của mẹ:

Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi

Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước

Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ

Mai sau con lớn làm người Tự do…

Điệp khúc: Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi, Mẹ thương a-kay…, Con mơ cho mẹ…, Mai sau con lớn… đã thể hiện khát vọng cháy bỏng trong lòng người mẹ. Mẹ mong ước cho con những điều thật thiết thực và cũng thật lớn lao, kì diệu:

Mai sau con lớn vung chày lún sân…,

Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi

Mai sau con lớn làm người Tự do…

Khi giã gạo, mẹ mong con mơ cho mẹ hại gạo trắng ngần. Khi tỉa bắp trên nương, mẹ mong con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều. Khi chiến đấu, mẹ mong con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ trong ngày đất nước sạch bóng quận thù, Bắc-Nam thông nhất. Chính tình thương, đức hi sinh, lòng vị tha và nhân hậu cao cả của những người mẹ nghèo yêu nước ấy đã góp phần làm nên chiến thắng hôm nay.

Bài thơ ra đời năm 1971, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến đấu chông Mĩ cứu nước nhưng đến nay nó vẫn còn giừ nguyên giá trị. Khúc hát ru đã được phổ nhạc, trở thành bài ca được nhiều người ưa thích. Tình yêu thương con của bà mẹ nghèo miền núi gắn liền với tình thương bộ đội, tình yêu làng bản, lòng kính yêu Bác Hồ và tình yêu đất nước.

Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được đánh giá là một trong những bài thơ hay của thơ ca giai đoạn chống Mĩ cứu nước. Giờ đây, đọc lại bài thơ, người ta vẫn rưng rưng xúc động bởi tình cảm mộc mạc, chân thành cao đẹp của những người mẹ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ và oanh liệt của dân tộc ta. Tự hào thay, người mẹ Việt Nam!

Sau cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước, Tổ quốc ta, nhân dân ta đã xây dựng biết bao tượng đài để ghi nhớ công ơn và ngợi ca những người mẹ Việt Nam anh hùng, Với Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã xây dựng thành công một tượng đài bằng ngôn ngữ về những người mẹ miền núi vô danh.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 9

Biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ trong “Truyện Kiều”

Được phát hành

,

Bởi

Đề bài: Giáo sư Đặng Thanh Lê có viết: “Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ”. Hãy phân tích một số câu, một số đoạn trong Truyện Kiều để làm sáng tỏ nhận xét trên.

Bài làm

Truyện Kiều của thi hào dân tộc Nguyễn Du là kiệt tác trong nền văn học cổ Việt Nam. Tuy mượn đề tài, cốt truyện từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) nhưng áng thơ dài 3254 câu thơ lục bát này đậm đà bản sắc đân tộc, chứa chan một tình nhân ái bao la “rung động đất trời” (Tố Hữu).

Về phương diện nghệ thuật, truyện thơ này là mẫu mực và đỉnh cao về ngôn ngữ thi ca và xây dựng nhân vật. Đọc Truyện Kiều, ta cảm nhận một cách sâu sắc. “Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ mà giáo sư Đặng Thanh Lê đã nhận xét.

Khi tả cảnh cũng như lúc tả người, tả tình, với cá tính sáng tạo của một thiên tài, Nguyễn Du đã vận dụng nhiều biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt tả ẩn dụ làm cho câu thơ, đoạn thơ đầy hình tượng và biểu cảm.

Nguyễn Du có biệt tài về vận dụng biện pháp tu từ của văn học dân tộc

Mùa xuân về tưng bừng trong ngày hội “Đạp thanh” của tuổi trẻ. Ba chị em Kiều cũng “sắm sửa bộ hành chơi xuân”. Khắp các ngả đường, dòng người trây hội kéo dài vô tận:

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

Đằng biện pháp tu từ hoán dụ (ngựa xe, áo quần), so sánh (… như nước… như nêm) và đối (2 vế câu 8 đối nhau) nhà thơ đã tái hiện cảnh trẩy hội mùa xuân tấp nập, đông vui, rộn ràng của giai nhân, tài tử.

Đây là hai câu tỏ tình của chàng Kim:

Tiện đây xin một hai điều,

Đài sen soi đến dấu bèo cho chăng?

“Dấu bèo” (ẩn dụ) chỉ kẻ tầm thường, thấp hèn. Kim Trọng khiêm tốn, nhún mình. “Đài sen” (ẩn dụ) chỉ con người cao quý, được trân trọng. “Đài sen soi đến…” (nhân hoá): lời tỏ tình tế nhị. Chàng Kim hào hoa, đa tình biểu lộ một tâm tình say đắm người đẹp, bày tỏ một tấm lòng khao khát yêu đương. Cách tỏ tình vừa hoa mỹ vừa truyền cảm.

“Trước lầu Ngưng Bích” là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong Truyện Kiều. Tác giả vận dụng tài tình các biên pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ,… để viết nên những vần thơ tuyệt diệu. Điệp ngữ “Buồn trông” đứng ở đầu câu sáu, láy lại bốn lần liên tiếp, khơi gợi nỗi sầu thương nặng trĩu, triển miên, day dứt trong lòng Kiều. Cửa bể chiều hôm hoang vắng, xa lạ, mịt mờ với con thuyền và cánh buồm, ngọn nước mới sa và hoa trôi man mác, nội cỏ dầu dầu và chân mây, mặt đất,… gió cuốn và ầm ầm tiếng sóng – là những hình ảnh ẩn dụ và hoán dụ đặc tả một kiếp người lưu lạc đang lênh đênh, trôi dạt trên dòng đời vô định đầy bão tố, với tâm trạng sợ hãi, cô đơn và tuyệt vọng. Ngoại cảnh hoà hợp với tâm cảnh:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du có biệt tài… đặc biệt là ẩn dụ

Ẩn dụ là lối ví ngầm. Xưa nay, đoạn thơ tả tài sắc hai chị em Kiều vẫn được nhiều người tán thưởng. Bức chân dung “hai ả tố nga” vô cùng xinh đẹp, một vẻ đẹp thanh tân, tuyệt mĩ:

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Thuý Kiều và Thuý Vân cốt cách, yểu điệu như “mai”, tinh thần trắng trong như “tuyết”; từ dáng vẻ, dung nhan đến tâm hồn đều kiều diễm “mười phân vẹn mười”. Hai hình ảnh ẩn dụ “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” là những nét vẽ tài hoa, có giá trị thẩm mỹ tinh tế.

Bốn câu thơ tiếp theo tả sắc đẹp Thuý Vân. Gương mặt đầy đặn xinh tươi như vầng trăng rằm, lông mày thanh tú xinh xắn như “mày ngài”, miệng cười tươi như “hoa”, tiếng nói trong như “ngọc”, tóc mềm bóng đẹp hơn “mây”, da trắng mịn hơn “tuyết”. Trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết,… tiêu biểu cho vẻ đẹp của thiên nhiên được ví với gương mặt, nụ cười, giọng nói, mái tóc, màu da… của giai nhân. Cách miêu tả ấy tuy mang tính chất ước lệ, nhưng ngòi bút “thần” của Tố Như đã viết nên những cảu thơ có hình ảnh ẩn dụ hấp dẫn lạ thường:

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang.

Mây thua nước tốc, tuyết nhường màu da.

Nếu Vân là một giai nhân thì Kiều là một giai nhân tuyệt thế, mặn mà, sắc sảo tài sắc vẹn toàn. Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp ẩn dụ – nhân hoá gợi tả vẻ đẹp mộng mơ của Thuý Kiều. Mắt nàng trong như nước mùa thu. Lông mày xinh xắn như dáng núi mùa xuân… Sắc đẹp ấy làm cho hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”:

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Những câu thơ, những hình ảnh ẩn dụ – nhân hoá ấy là bông hoa nghệ thuật tươi thắm mãi với thời gian toả hương vào hồn người. Nó còn thể hiện tấm lòng ưu ái của nhà thơ đối với cái đẹp trong nhân gian.

Nguyễn Du không những đã tiếp thu thi liệu, điển tích của văn học Trung Hoa mà còn học tập dân ca, ca dao, học lời ăn tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai nơi đồng nội để sáng tạo nên vần thơ đặc sắc.

“Hạt mưa” là hình ảnh so sánh ẩn dụ trong ca dao, dân ca nói về thân phận, số phận của người con gái ngày xưa: “Thân em như hạt mưa sa, Hạt rơi đài các, hạt ra ruộng cày”… Trước cảnh gia biến, nàng Kiều nghĩ và hành động:

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.

“Hạt mưa, tấc cỏ, ba xuân” là những hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trung, nói ít mà gợi nhiều, hàm súc, hình tượng và truyền cảm. Kiều là một thiếu nữ giàu đức hi sinh, hiếu thảo, quyết bán mình chuộc cha khỏi vòng tù tội.

Nghệ thuật của Truyện Kiều là đa dạng, phong phú, đặc sắc độc đáo. Những câu Kiều vừa trích dẫn ở trên đã khẳng định nhận xét”của giáo sư Đặng Thanh Lê là đúng đắn.

Ứớc lệ và tượng trưng là đặc điểm của thi pháp cổ. Lúc tả cảnh, tả người, tả tình… Nguyễn Du cũng sừ dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng nhưng với cá tính sáng tạo của một nghệ sĩ thiên tài, câu thơ Kiều đầy nhạc điệu, hình ảnh “Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”, rất sống động và tinh tế. Đặc biệt là những câu Kiều mang hình ảnh ẩn dụ đã in sâu vào tâm trí mỗi chúng ta: “Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày…” (Tố Hữu)

Truyện Kiều đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam. Tên tuổi thi hào dân tộc Nguyễn Du sống mãi trong tâm hồn của nhân dân ta với bao tình cảm kính phục, tự hào.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 9

Bình luận bài thơ “Bếp lửa”

Được phát hành

,

Bởi

Chúng ta đã được đọc nhiều áng thơ hay về tình yêu quê hương, tình cảm gia đình. Có người thích vẻ đẹp thiết tha, nồng nàn của Tế Hanh ở bài Quê hương. Có người yêu sự mộng mơ, lãng mạn của tình mẹ con trong bài Mây và Sóng của Ta-go… Riêng tôi, tôi đồng cảm cùng tình bà cháu nồng đượm, đằm thắm trong bài Bếp lửa của Bằng Việt.

Bếp lửa là một bài thơ của nỗi nhớ về một bếp lửa tuổi thơ, nhớ rành rọt, nhớ ngọn ngành. Không dễ gì mà biết nhớ như vậy. Nhà thơ đã thổi bùng lên một bếp lửa ấp iu nồng đượm trong kí ức để hiện lên mối tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa,

Trong thơ văn, còn có mối tình bà cháu nào cảm động hơn? Mối tình bà cháu như một dòng sông, dòng sông êm đềm và trong vắt, một dòng sông chở đầy kỉ niệm: một bếp lửa và một làn sương sớm. Tiếng tu hú và giọng kể chuyện của bà.

Rồi những ngày đói khổ làm nhoà mắt đứa cháu còn bé… Và kỉ niệm này xin để nguyên khôi, không dám lược bớt:

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu, nhà thơ nói thế, chúng ta cũng thấy cay sống mũi. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình âm ỉ, thầm thì, triền miên như nỗi nhớ. Dòng sông êm đềm và trong vắt vẫn âm thầm chảy. Chúng ta được dạo trên chiếc thuyền thơ với một tay lái khoan thai, chúng ta đang say mê với những kỉ niệm thì thấy biển cả hiện ra trước mắt!

Dòng sông của tình bà cháu đã đổ vào biển cả của tình yêu nước. Biển yên sóng lặng thôi, nhưng cũng bát ngát sâu thẳm.

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh

Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen…

Mấy câu thơ chẳng có gì là kĩ xảo, chẳng có gì là gọt tỉa, giản dị như lời nói thường thôi: như được nghe chính lời bà thủ thỉ, như có một thứ gió lạ kì lay động tâm hồn ta mãi. Đứa cháu có nghĩa có tình đã biết đã quý điều bà thường cất giấu kín đáo trong rương trong hòm. Và chính ánh sáng của những thứ của quý đó đã từng rọi vào tâm hồn thơ bé của đứa cháu, nhóm dậy, nhóm dậy, nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Nhịp thơ trở nên xốn xao như sự sống sinh đôi, như cây non xoè lá, như chim non chớp cánh.

Rồi đứa cháu lớn vụt lên, bay bổng:

Giờ cháu đã đi xa.

Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Những năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, giữa những hoa mĩ, dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, tình cảm chủ đạo chi phối tâm não tác giả là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Vì thế nhà thơ đã gửi về bà – người bà rất đỗi kính yêu – như lời tâm tình chân thật, thiết tha: sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Từ tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích, bài thơ gợi lên những yêu thương đầu tiên, những suy nghĩ đầu tiên về cuộc đời, về đất nước… Cảm xúc tinh tế, chân thật và đượm buồn của nhà thơ trỗi dậy trong kí ức người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống tình nghĩa của dân tộc. Và đó chính là sức hấp dẫn của bài thơ Bếp lửa.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 9

Bình luận bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

Được phát hành

,

Bởi

Mùa Xuân, ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền xứ Huế…

(Thanh Hải)

Vâng, đã có một Mùa Xuân như thế – một Mùa Xuân âm vang tiếng hát từ trong lòng người để rồi lan toả cả đất trời- một Mùa Xuân trên quê hương xứ Huế giàu chất thơ với bao vẻ đẹp quyến rũ làm say đắm lòng người. Mùa Xuân làm đổi mới, khởi sắc thiên nhiên, tạo vật và bỗng dưng tâm hồn con người tràn trề một niềm yêu đời, vui sống mãnh liệt. Nhà thơ Thanh Hải, một người con của Huế đã nắm bắt và truyền vào lòng người những cảm xúc chan chứa yêu thương ấy bằng một bài thơ có nhan đề rất khiêm tốn: Mùa Xuân nho nhỏ. Thế nhưng bài thơ từ lúc ra đời đã cất cao tiếng hát lạc quan từ trái tim nhà thơ hoà vào bản hoà- tấu- cuộc- đời rộng lớn, âm vang suốt chiều dài thời gian từ bấy đến nay. Bài thơ đã thực sự thành bài hát nổi tiếng được mọi người yêu chuộng.

Mở đầu bài thơ là một bức tranh Mùa Xuân tươi đẹp, không gian bao la, bát ngát mở ra cả ba chiều:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Trên cái nền không gian rộng lớn ấy, nổi bật những hình ảnh, đường nét, màu sắc thật nên thơ và gợi cảm, êm ái, dịu dàng, đáng yêu biết bao. Một màu xanh tươi sáng trải rộng mênh mông làm nền và tôn thêm vẻ đẹp nổi bật của “bông hoa tím biếc”. Một màu “tím biếc” lung linh, lấp lánh giữa “dòng sông xanh” lại càng thơ mộng.Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên được nhà thơ phác hoạ bằng hai hình ảnh với những đường nét mềm mại, thanh sơ, màu sắc hài hoà đã thể hiện cái “hồn” của Mùa Xuân: một sắc Xuân đầy sức sống và quyến rũ

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc.

“Mọc” là vươn lên, trỗi dậy từ lòng đất. Đặt từ “mọc” ngay từ đầu câu thơ, bài thơ đã gây cho người đọc về sức sống mãnh liệt, bất ngờ đến ngạc nhiên của thiên nhiên, tạo vật. Bức tranh Mùa Xuân không chỉ có hình ảnh, màu sắc mà còn có cả âm thanh. Đó là âm thanh tiếng chim chiền chiện hót ngân vang, thánh thót càng làm cho buổi sớm xuân có không khí náo nức lạ thường. Đứng trước vẻ đẹp đầy sức hấp dẫn và quyến rũ của bức tranh Xuân ấy, tâm hồn nhà thơ làm sao ngăn được những xúc động mãnh liệt. Tâm hồn nhạy cảm của thi nhân và những tác động ngoại cảnh đã khơi dậy bao nguồn cảm xúc. Tình yêu thiên nhiên, lòng yêu đời, yêu cuộc sống trào dâng chan chứa, tràn đầy. Tiếng thơ là tiếng lòng tác giả thốt lên từ trái tim rung động dào dạt:

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời.

Hai câu thơ nhằm bộc lộ cảm xúc cao độ. Có cái gì ngọt ngào, rất Huế trong giọng thơ trìu mến, thân thương qua những từ ngữ chân quê, mộc mạc: “ơi… chi mà..”. Phải thực sự là người sống gắn bó với Huế qua bao tháng năm bằng tình yêu tha thiết, mới hiểu được cái giọng Huế ngọt ngào trong lời thơ Thanh Hải. “Hót chi mà vang trời” cứ ngỡ như là một lời trách nhưng là trách yêu đấy thôi; chan chứa yêu thương. Với một tâm hồn nhạy cảm và một tình yêu mãnh liệt như thế, tiếng chim đã tác động vào trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ, tạo nên những ảo giác. Tâm hồn tác giả đang ở trạng thái “tĩnh” chuyển sang trạng thái “say”. Trí tưởng nhà thơ đi từ cõi thực dần vào cõi mộng. Vì thế mà tiếng chim hót, nhà thơ cứ ngỡ như là “từng giọt long lanh rơi” có thể nhìn thấy, có thể đưa tay hứng được:

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.

Tâm hồn nhà thơ đã bị cuốn hút mãnh liệt bởi tiếng chim. Và cái cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” là một biểu hiện cao độ của niềm say mê đó. Có cái gì náo nức, rộn rã, xao xuyến không chỉ thể hiện qua cử chỉ mà còn chứa đựng trong cả lời thơ, giọng thơ. Nhịp thơ dồn dập, âm hưởng ngân vang rất cao như một bản hoà tấu, bắt đầu thong thả, nhỏ nhẹ rồi nhanh dần, vút cao bằng một thanh trắc ở cuối đoạn: “tôi đưa tay tôi hứng”. Tiếng hót của loài chim trong thiên nhiên đã khơi dậy tiếng hát trong lòng tác giả. Dường như, tự trong lòng mình, nhà thơ đã cất cao tiếng hát. Tiếng hát của niềm lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha. Nhà thơ đã hát cùng thế hệ, hát mãi một niềm khát vọng, một lẽ sống tốt đẹp: khát vọng cống hiến phần nhỏ bé của bản thân mình để làm cho cuộc đời chung ngày một tươi đẹp:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hoà ca

Một nốt trầm xao xuyến.

Lẽ sống ấy đã trở thành điều tâm niệm và điều tâm niệm ấy được láy đi láy lại như một điệp khúc trong bản hoà tấu ngợi ca Quê hương, Mùa Xuân và Cuộc sống.

(Bài viết của Thuỷ Triều, đăng trên báo Thừa Thiên Huế số 55, 24/1/1999)

Tiếp tục đọc

Xu hướng