Connect with us

Văn mẫu 12

Cảm nhận về nhân vật Tnú trong “Rừng xà nu” (3)

Được phát hành

,

Tây Nguyên – núi rừng hùng vĩ đầy bí ẩn với những cánh chim Ling, chơ rao rực rỡ sắc màu, với những âm thanh trầm hùng của đàn tơ rưng hay tiếng cồng chiêng của mùa lễ hội… đã đi vào trang thơ, trang văn một cách tự nhiên xúc động. với Nguyễn Trung Thành mảnh đất và con người tây Nguyên không ít thành công. Trước hết là giải nhất văn học Việt Nam 1954-1955 với tiểu thuyết đất nước đứng lên viết về buôn làng Công Hoa với anh hùng Núp trong kháng chiến chống Pháp. Một lần nữa Nguyễn Trung Thành lại bước lên đài vinh quang với truyện ngắn Rừng xà nu để nhận giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu 1965. Tác phẩm viết về câu chuyện buôn làng Xô man đánh Mỹ trong đó nổi bật nhất là nhân vật Tnú – người kết tinh mọi đau thương, khát vọng và sức mạnh của cộng đồng.

Rừng xà nu ra đời năm 1965 khi đế quốc Mỹ bắt đầu ồ ạt vào miền Nam nước ta. câu chuyện là lời kể hoà vào dòng hồi tưởng của Tnú. Truyện của một đời một người kể trong vòng một đêm đã trở thành lịch sử của một dân tộc. cuộc đời Tnú chính là cuộc đời của dân làng Xô man từ đau thương vùng lên đấu tranh và trưởng thành. Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công nhân vật Tnú giống như biểu tượng cho tây Nguyên anh dũng trong chiến đấu cách mạng để trả món nợ lòng mà ông từng gắn bó yêu thương.

Lúc còn nhỏ Tnú là một đứa trẻ mồ côi lớn lên trong sự đùm bọc cưu mang của dân làng. Cụ Mết bảo “đời nó… nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Như vậy Tnú chính là đứa con của Xô man, của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ. Khác với A Phủ cùng cảnh ngộ trong truyện ngắn Vợ Chồng A phủ của Tô Hoài, Tnú được giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Ngay từ nhỏ cán bộ Quyết đã dạy Tnú và Mai trở thành những cán bộ cách mạng giỏi. Không phụ lòng mong mỏi của anh Quyết Tnú đã hội tụ và sớm bộc lộ những phẩm chất của một anh hùng tuổi nhỏ, của một người cán bộ cách mạng trong tương lai.

Ngày cán bộ đảng về đóng chốt ở buôn làng Xô man, người dân Xô man đã thay nhau đi tiếp tế cho cán bộ, cũng đã có những người bị chúng bắt và giết chết ngay trước mắt buôn làng hòng lung lay ý chí của người dân ví dụ như bà Nhan, anh Sút. Lúc ấy Tnú và Mai còn rất nhỏ nhưng không sợ mà đã xung phong đi tiếp tế và liên lạc với những cán bộ trong rừng. Nếu không gan góc quả cảm thì thì sao dám nhận trọng trách ấy.

Khi đi liên lạc Tnú đã xé rừng mà đi, Tnú không chọn đường mòn, không chọn quãng nước êm mà chọn con dường gai góc, chọn quãng nước chảy xiết và lọt qua hết vòng vây của giặc. Tnú yêu thương cán bộ vượt qua súng đạn để tiếp tế thậm chí còn ngủ trong rừng cùng cán bộ vì sợ để cán bộ một mình “nhỡ giặc bắt thì làm sao”. Còn nhỏ thế mà Tnú đã có gan góc lạ thường và có ý chí sắt đá. Một lần chẳng may bị giặc bắt Tnú sẵn sàng nuốt ngay bức thư vào bụng để giữ an toàn cho cán bộ. Khi giặc hỏi cộng sản ở đâu Tnú nhất định không khai nó đặt tay len bụng mà dõng dạc trả lời “cộng sản ở đây này”, sau câu hỏi ấy người Tnú lại ngang dọc vết dao chém.

Gan góc, quả cảm, mưu trí là vậy nhưng Tnú lại học chữ rất chậm: học chữ o thì quên chữ a. Tnú tức và đập bể cái bảng và bỏ ra bờ suối cả ngày lấy đá đập đầu cho máu chảy ròng ròng để trừng phạt mình. Tnú quyết tâm học chữ cho được bởi anh Quyết nói: “Phải học giỏi mới làm được án bộ giỏi” Có thể nói những phẩm chất của Tnú đã báo trước cho chúng ta sẽ có một cán bộ cách mạng trung kiên bất khuất.

Ba năm sau Tnú vượt ngục trở về làng, anh đã trưởng thành như một cây xà nu cường tráng “bộ ngực rộng hai cánh tay chắc như lim”. Tnú mang vẻ đẹp của con người đã quen cái nắng, cái gió trên mảnh đất Tây nguyên. Anh trở thành một cán bộ cách mạng trung kiên thay anh Quyết lãnh đạo dân làng Xô man đánh giặc. Tnú lấy Mai cô bé học chữ hơn anh thuở nào. Hạnh phúc trọn vẹn khi đứa con ra đời giống anh đến lạ lùng. Đó là đoạn đời hạn phúc nhât nhưng cũng bi thương nhất của Tnú.

Nghe tin Tnú trở về lãnh đạo dân làng Xô man chuẩn bị khởi nghĩa, kẻ thù rất gườm anh. Chúng khiếp sợ và gọi chàng là con cọp bao lần phục kích mà chúng không bắt được. Sau đó chúng lập kế hoạch bắt cọp cái, cọp con để dụ con cọp đực ra. Thế rồi chúng bắt mẹ con Mai tra tấn cho đến chết. đứng sau gốc cây vả chứng kiến cảnh vợ con bị tra tấn lòng căm thù trong con người anh sục sôi nóng bỏng, hai con mắt anh như hai ngọn lửa lớn. Mặc cho sự ngăn cản của cụ Mết, Tnú xông lên cứu mẹ con Mai nhưng đôi bàn tay ấy không cứu được vợ, mẹ con Mai vẫn chết, bản thân Tnú thì bị bắt và tra tấn dã man. Chúng tẩm xăng xà nu quấn rẻ quanh mười đầu ngón tay rồi chạm lửa đốt “một ngón, hai ngón, ba ngón cháy rồi lại bén rất nhanh trong tích tắc mười ngón tay Tnú như mười ngọn đuốc sống”. Bị giặc bắt và tra tấn dã man như vậy nhưng Tnú không kêu rên nửa lời, anh vẫn nhớ đinh ninh lời dặn của anh Quyết: “Người cộng sản không thèm kêu van”. Bi kịch Tnú hay chính là bi kịch của làng Xô man. Tnú có tát cả sức khoẻ, phẩm chất anh hùng, có lòng căm thù giặc sâu sắc, có ý chí quyết tâm đấu tranh nhưng anh vẫn thất bại vì anh chỉ có một mình với đôi bàn tay không. Từ cuộc dời Tnú dã sáng ngời chân lý của thời đại: “chúng nó đã cầm súng thì ta phải cầm giáo mác”.

Trong đêm bị giặc bắt Tnú không chỉ mất mười đầu ngón tay, không chỉ bị hành hạ nỗi đau thể xác mà anh còn vĩnh viễn mất mẹ con Mai. Nỗi đau tinh thần không bao giờ liền sẹo được. sức chịu đựng vì đau đớn, lòng căm thù sục sôi vì mất vợ con tất cả được dồn nén trong một tiếng lớn. Tiếng thét của Tnú vang dội trong đêm ấy vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn giục dã cộng đồng Xô man đứng lên quật khởi. Đêm đau thương của Tnú cũng là đêm “rừng Xô man ao ào rung động”. có thể nói ngọn lửa căm thù từ đôi tay Tnú đã châm ngòi cho cuộc nổi dậy của dân làng Xô man. Cuộc đời Tnú cũng là những trang sử của dân làng Xô man từ đau thương mất mát họ đã vùng lên chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Khi họ nhận ra chân lý thì cũng là lúc họ nhận tức được trách nhiệm cảu mình đối với sự tồn vong của quê hương đất nước.

Như vậy khi xây dựng nhân vật Tnú Nguyễn Trung Thành đã soi rọi nhân vật qua nhiều góc nhìn khác nhau để thể hiện vẻ đẹp hoàn thiện của hình tượng. Có lẽ sức hấp dẫn của nhân vật chính là nhờ những góc đọ sinh động ấy.

Kết tinh mọi vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng Tnú chính là đôi bàn tay. Đôi bàn tay của anh đã góp phần làm nổi bật tính cách số phận của anh đồng thời toát lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đôi bàn tay ấy cũng có một cuộc đời: khi còn lành lặn đôi bàn tay ấy biết cầm phấn học chữ, biết cầm đá đập đầu cho máu chảy ròng ròng vì học chữ hay quên, đôi bàn tay từng dũng cảm chỉ vào bụng mình ma nói “cộng sản ở đây này”. đôi bàn tay ấy từng cầm tay Mai hò hẹn, từng biết dứt hang chục trái vả khi chứng kiến bọn chúng tra tấn mẹ con Mai. Vợ con anh chết anh bị bắt đôi bàn tay ấy bị giặc đốt trong cái đêm buôn làng quật khởi. sau đêm mất mát ấy Tnú lại ra đi, tham gia vào lực lượng vũ trang và mang theo đôi bàn tay cụt đốt để chứng tích cho tội ác của giặc. Thời gian có thể làm lành và mờ đi những vết sẹo trên tay anh nhưng nỗi đau mất vợ con thì vẫn còn nguyên đó. Ngay trở về đôi bàn tay ấy lại cùng dân làng cầm giáo, cầm mác đứng lên giết giặc. trong một cuộc chiến đấu chính bàn tay cụt đốt kia đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc.

Có thể nói chi tiết đôi bàn tay Tnú được nhà văn xây dựng rất ấn tượng. Chỉ với hình ảnh đôi bàn tay ấy độc giả cũng phần nào hiểu được số phận tình cảm của Tnú- người con trung kiên của Xô man anh hùng.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 12

“Bác ơi!” – Bản điếu văn bi hùng

Được phát hành

,

Bởi

Ngày mùng hai tháng chín năm một chín sáu chín, chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam đang diễn ra gay go ác liệt. Nỗi đau thương lớn lao, đột ngột với toàn dân tộc. Tin dữ đến với Tố Hữu khi ông đang nằm điều trị ở bệnh viện Việt Xô. Trời mưa tầm tã, ngôi nhà sàn vắng lặng, không khí bi thương bao trùm đã khơi nguồn cảm hứng cho bài thơ, khơi nguồn một tiếng khóc dài, một tiếng khóc lớn, một bản điếu văn bi hùng kết nối hàng triệu trái tim đang xúc động. Bài thơ được đưa vào tập Ra trận năm 1972.

Tựa đề bài thơ là một câu ngắn hai tiếng với dấu chấm than như một tiếng nấc nghẹn ngào đến tột đỉnh của nỗi đau thương. Nó là tiếng gọi thốt ra rất tự nhiên từ đáy sâu cảm xúc của tâm hồn như người ta vẫn gọi mẹ ơi! Cha ơi! Đây cũng là cách xưng hô quen thuộc tạo giọng điệu ân tình của Tố Hữu.

Tiếng khóc đau thương nặng trĩu bắt đầu bằng những lời tâm sự, giãi bày của con đối với cha:

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa

Chiều nay con chạy về thăm Bác

Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa.

Hai câu đầu nói được vừa cụ thể vừa khái quát nỗi đau thương to lớn vô hạn đang bao trùm đất nước. Hiện thực trong những ngày diiễn ra lễ tang Bác trời mưa tầm tã, nhưng “tổn thất này thật là lớn lao, đau thương này thật là vô hạn” khiến cho nơi nơi, người người tuôn nước mắt, thiên nhiên, đất trời, cỏ cây, vạn vật cũng tuôn “nước mắt”. Có gì đau đớn hơn để nước mắt phải tuôn không dứt như thế? nước mắt của nhà thơ hoà trong nguồn nước mắt tuôn chảy ấy… Tố Hữu đã tất tưởi về thăm nơi Bác ở, về thăm lại nhà sàn… Động từ “chạy” biểu hiện cảm xúc cực kỳ đau dớn, đau đớn không thể tin, không dám tin. Từ được đặt đúng chỗ, hợp cảnh, hợp tình. Bước chân líu ríu, muốn nhanh cũng không được, vừa chạy vừa vấp ngã, đứng lên lại vấp ngã… Nước mắt nhà thơ ghìm trong hơi thở dồn dập, gấp gáp để mà hy vọng, để mà níu kéo… nhưng khi đối mặt với: “ướt lạnh vườn rau mấy gốc dừa” mới chợt vỡ oà trong đau đớn…

Dưới những trận mưa tầm tã bước chân, tư thế, dáng nhìn của nhà thơ đến nao lòng:

Con lại lần theo lối sỏi quen

Đến bên thang gác đứng nhìn lên

Các chữ: “lần”, “đến”, “đứng”, “nhìn” là những động từ liên tiếp diễn tả bước chân, tư thế, tâm trạng vội vã, ngơ ngác không thể tin được của nhà thơ. Lối sỏi quen sao lại phải “lần”? Có phải đau đớn tới mức không còn nhìn thấy? Dò dẵm từng bước vừa đi vừa khóc cho kịp đến bên nhà sàn quen thuộc? Trong ngày tang lễ Bác, Chế Lan Viên cũng tự đáy lòng thốt lên:

Ôi Tổ quốc trong giờ tang lễ

Đau núi sông cơn đau trời bể…

Rất trí tuệ nhưng cảm xúc thơ vẫn thiếu đi sự gần gũi chân tình.

Theo cái nhìn của tâm trạng đau buồn, cảnh vật cũng trở nên vắng lặng như ngơ ngác, thảng thốt trong nỗi mất mát lớn lao:

Chuông ơi chuông nhỏ còn reo nữa

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn.

Bác đã đi rồi sao Bác ơi!

Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời

Miền Nam đang thắng mơ ngày hội

Rước Bác vào thăm thấy Bác cười.

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài

Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm

Quanh mặt hồ in, mây trắng bay…

Chuông không còn reo, phòng lặng lẽ, đèn đã tắt, trái bưởi và hoa nhài trở thành lẻ loi vì không có người vun tưới… Những nhân hoá đã gợi lên nỗi đau thương thấm thía vào cảnh vật, gợi nên cảm giác về sự mất mát tê tái, bơ vơ của tác giả muốn được chia sẻ.

Đoạn thơ có sự ám ảnh giữa mơ và thực, một mặt không tin “Bác đã đi rồi” vì cách mạng miền Nam đang thắng lớn, Người đang lãnh đạo và mong ước có ngày vào thăm, mặt khác lại phải tin vì hiện thực “còn đâu bóng Bác” rất cô đơn.Cách gieo vần liền, vần cách, lối dùng vần mở, nửa mở, đóng vang, cách bố trí thanh trầm ở cuối các câu khiến cho phần đầu của bài thơ như một dòng tình cảm xót xa, tiếc thương tuôn chảy rất tự nhiên, rất chân thành. Nỗi đau thương cứ trĩu nặng mãi khi các chữ “Bác”, “Bác ơi”, câu cảm thán, câu hói được lặp lại nhiều lần.

Từ cảm xúc, mạch thơ đã chuyển sang lý trí, nhà thơ tiếp tục đúc kết giá trị đạo đức, tình thương, phong cách sống của Hồ Chí Minh. Con người ấy, tình thương ấy đã đạt đến độ quên mình:

Ôi phải chi lòng được thảnh thơi

Năm canh bớt nặng nỗi thương đời

Bác ơi tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông mọi kiếp người.

Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau

Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu

Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ

Cho hôm nay và cho mai sau…

Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, luạ tặng già…

Phóng đại, hoán dụ đã tạo nên nhận thức: tình thương của Bác không bờ bến: “thương mọi kiếp người”, thương mọi lứa tuổi, thương mỗi cành cây ngọn cỏ. Tình thương ấy là sự chăm sóc rất đỗi ân tình:

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, lụa tặng già.

Tình thương biểu hiện thành “nỗi buồn”, “nỗi đau”, “nỗi lo”, “nỗi nhớ”, “niềm vui”, “tình yêu” trong tâm hồn Người. Bác lo cho dân, cho nước, cho nhân loại, nỗi lo thành nỗi đau, đau cho dân tộc, lo cho phong trào cộng sản quốc tế, lo cho hôm nay và lo cho muôn đời sau. Tác giả đã so sánh lòng Bác với dân với nước như lòng mẹ với con bao la bất tận là một sự liên tưởng thú vị tài tình. Nếu như câu thơ “Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ” là so sánh để giãi bày cảm xúc thì câu “Bác sống như trời đất của ta” lại được cô đúc đầy trí tuệ. Tố Hữu đã cảm nhận được điều bao trùm và hết sức cơ bản trong cách sống của Hồ Chí Minh: con người ấy đạt đến cái tự nhiên như trời đất, hoà đồng với tự nhiên, đã đạt đến cái cao sâu huyền diệu của sự sống. Rất hợp với giọng điệu ngợi ca, đoạn thơ có nhiều vần sáng, thanh điệu cao, nhiều so sánh, hoán dụ tạo liên tưởng phong phú bất ngờ. Hình ảnh Bác toả sáng cao đẹp. Niềm tự hào của nhà thơ dẫn cảm xúc, truyền cảm xúc tự hào cho người đọc không dứt…

Lời thơ tiếp tục khẳng định về niềm lạc quan, lẽ sống cao đẹp của Hồ Chí Minh bằng những suy tưởng, liên tưởng tài tình:

Bác vui như ánh buổi bình minh

Vui mỗi mầm non trái chín cành

Vui tiếng ca chung hoà bốn biển

Nâng niu tất cả chỉ quên mình.

Bác để tình thương cho chúng con

Một đời thanh bạch chẳng vàng son

Mong manh áo vải hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.

Những câu thơ kết tinh, chiêm nghiệm sâu sắc về con người và phong cách sống của Bác. Đó là kết quả của sự am hiểu, gần gũi của tác giả về Bác suốt từ những năm kháng chiến ở Việt Bắc mà không một nhà thơ Việt Nam nào có được. Đoạn thơ đã khắc hoạ được chân dung một con người giản dị, thanh cao, vĩ đại. Con người không sống cho riêng mình “một đời thanh bạch” với chiếc áo ka ki bạc màu. Vẻ ngoài giản dị mà tâm hồn cao thượng không thể đo hết được. Bác sống giữa cuộc đời, trong muôn triệu con người đâu cần gì đến những tượng đồng ở khắp nơi. Bình dị là thế, cao đẹp cũng là thế, những so sánh tương phản đã diễn tả khá tài tình. Một nhà thơ Ấn Độ đã từng thán phục về Người: “Vị Thánh sống của muôn ngàn thánh sống, vị ân nhân của cả muôn người”.

Lời thơ lại trở về với cảm xúc tiếc thương nhưng bình thản, tự chủ, đau thương gắn liền với niềm tin, nhà thơ nguyện mãi mãi đi theo con đường mà Bác đã vạch ra:

Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu

Ra đi Bác dặn còn non nước

Nghĩa nặng lòng không dám khóc nhiều.

Bác đã lên đường theo tổ tiên

Mác Lê–nin thế giới Người hiền

Ánh hào quang đỏ thêm sông núi

Dắt chúng con cùng nhau tiến lên.

Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn

Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dãy Trường Sơn.

Đau thương nhiều, nhớ Bác nhiều, lại càng không thể quên làm theo di chúc của Người:

Còn non, còn nước, còn người

Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay.

Tình với Bác sâu nặng, nhưng nghĩa nước non vẫn trên đôi vai, phải nén đau thương lại. Nhà thơ thật tin ở chính mình khi nghĩ về Bác. Người là ánh sáng hào quang của sông núi dẵn dắt con thuyền Cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi hoàn toàn. Nghĩ về Bác, Tố Hữu đã nói được cái chân lý lớn lao và quan trọng:

Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn

Đó cũng là ý nghĩ để chân lý dân tộc, sức mạnh dân tộc, tinh thần dân tộc vững trãi như dải Trường Sơn, mãi mãi cao như ngọn Trường Sơn.

Bài thơ khép lại. Bốn mươi năm đã trôi qua, tiếng khóc lớn vẫn còn đó, một con Người vĩ đại vẫn còn đó. Bác ơi! đã thành tuyệt tác sống với thời gian, sống trong triệu triệu con người đất Việt. Bác ơi! là bản điếu văn bi hùng!

Chu Xuân Bình

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 12

Bình giảng bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm

Được phát hành

,

Bởi

Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Những năm 1970, 1971,… ông sống và hoạt động tại chiến trường Trị – Thiên; trường ca Mặt đường khát vọng được ông sáng tác vào thời gian ấy. Chương V Đất nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng.

Mặt đường khát vọng là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị – Thiên – một điểm nóng – trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về đất nước và nhân dân. Trong bài Có một thời đại mới trong thi ca, Trần Mạnh Hảo viết:

Vào đêm giao thừa Tết âm lịch 1973 – 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tôi xúc động nghe trích đoạn Đất nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc đã được nhà thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt.

Đất nước – là chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng dài 110 câu thơ (trong “Ngữ văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về đất nước trong cội nguồn sâu xa văn hoá – lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai, cảm hứng chủ đạo về đất nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. Từ đó, nhà thơ nhận diện phát hiện đất nước trên bình diện về địa lý, lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tinh thần dân tộc – nền văn hiến Việt Nam. Vẻ đẹp độc đáo của chương V Đất nước là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục…, cùng với cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.

Mười ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương Đất nước thể hiện cảm nhận: Đất nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt nam:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

(…)

Làm nên đất nước muôn đời…

Trong chương V trường ca Mặt đường khát vọng, hai từ “đất nước” và “nhân dân” đều được viết hoa, trở thành “mĩ từ” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về đất nước và nhân dân. Chủ thể trữ tình là “anh và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13 câu thơ là cấu trúc tổng – phân – hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của ngòi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.

1. Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền thống, về lịch sử,… đất nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của đất nước” được diễn đạt một cách “mềm hoá” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.

2. Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm nay” đến “ngày mai” và muôn đời mai sau.

Khi hai đứa cầm tay

Đất nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm

Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm – Đất nước là nơi ta hò hẹn – Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây dựng. Gia đình là “một phần” của đất nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hoà, nồng thắm” với tình yêu quê hương đất nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi “nhớ”:

Anh yêu em như anh yêu đất nước

Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…

Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm”, mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em, của bao lứa đôi khác:

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm

Có những lần trốn học bị đòn roi.

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi

(Giang Nam)

Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích trăm trứng: “Đất là nơi Chim về – Nước là nơi Rồng ở – Lạc Long Quân và Âu Cơ – Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng – Những ai đã khuất – Những ai bây giờ…”. Từ huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn, to lớn

Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,… Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hoà, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước. Đất nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất nước vẹn tròn, to lớn”.

Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”… “Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất nước hài hoà nồng thắm…”. “Đất nước vẹn tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này. Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch, hài hoà, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nên truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người” và đó là sức mạnh Việt Nam.

Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”, đất nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải,… cũng có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là cách nói của bà con xứ Huế.

Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại” xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần.

Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:

Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên đất nước muôn đời…

“Em ơi em” – một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về đất nước: “Đất nước là máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất nước là máu xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:

Nuôi lớn người từ ngày mở đất,

Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật

Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng

(Bài thơ của một người yêu nước mình, 19/12/1967)

Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hoá thân” là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san sẻ… phải biết hoá thân…” thì mới có thể “Làm nên đất nước muôn đời”. Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động. Có biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”, “hoá thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.

Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:

Tôi yêu đất nước này chân thật

Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi

Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi

Và yêu tôi đã biết làm người

Cứ trông đất nước mình thống nhất

(Trần Vàng Sao)

Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta như vợ như chồng

Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông

(Chế Lan Viên)

Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước muôn đời”. Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai đất nước và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính công dân của thời đại mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi.

“Em ơi em, đất nước là máu xương của mình…” – một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hoà bình phải biết đem “trí lực” để xây dựng Đất Nước, “làm nên đất nước muôn đời”, đất nước “to đẹp hơn đàng hoàng hơn”. Lúc có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi. “Gắn bó, san sẻ, hoá thân” cho đất nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy là tình yêu đất nước của “anh và em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”…

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 12

Bình giảng bài thơ “Sóng”

Được phát hành

,

Bởi

Nếu như Xuân Diệu đã từng thổn thức vì tình yêu, dâng hiến trọn đời cho tình yêu, chạy vội với thời gian để được yêu thì Xuân Quỳnh cũng thế, cũng từng thấp thỏm, lo âu, đau khổ vì yêu. Nhưng dù sao đi nữa, là phận nữ nhi nên người rất ít tỏ ra táo bạo, quá mạnh dạn như Xuân Diệu. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta thường bắt gặp hình ảnh con sóng, chiếc thuyền nói hộ tình yêu… Cũng vì lẽ ấy, suy cho cùng đây chỉ là những chất liệu dung dị, bình thường nhất trong cuộc sống song lại chứa đựng biết bao là ẩn ý, biết bao là ẩn tình mà Xuân Quỳnh muốn bày tỏ. Chúng ta đã đến với Sóng của Xuân Quỳnh để thưởng thức từng vị thương, vị nhớ của một người phụ nữ đang yêu. Người ta thường ví rằng tình yêu là một bông hoa kì diệu! Vâng! Quả đúng như thế, tình yêu chưa bao giờ đi theo một hướng xác định. Cũng có lúc, người ta nhìn nhận tình yêu là cây đàn muôn điệu gảy lên muôn bản nhạc tình, có khi trầm bổng thiết tha, có khi nghẹn ngào đau đớn, cũng có khi e ấp, nũng nịu, dễ thương. Thì đây, trong bài thơ này, tình cảm của nhân vật “Em” cũng biến thiên như thế!

“Sóng” là thơ ngụ ngôn, một thể thơ rất phù hợp để kể về một huyền thoại tình yêu đầy ăm ắp những tâm trạng khắc khoải, những cung bậc tình cảm và vì thế bài thơ dễ dàng được phổ nhạc. Sóng! – là một hình tượng ẩn dụ, là phương tiện bộc lộ tình cảm của nhân vật “Em”:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sóng không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Bồi hồi trong ngực trẻ

Một câu chuyện cổ tích về tình yêu được nhà thơ Xuân Quỳnh kể lại. Câu chuyện bắt đầu từ một con sóng nhỏ chẳng biết xuất phát từ đâu, sóng hiện ra như một con người có nội tâm nhiều biến động. Hai trạng thái tâm hồn đối lập nhau, giằng xé nhau, buồn vui lẫn lộn. Sóng chẳng hiểu tại sao mình lại cứ “dữ dội” rồi “dịu êm”, “ồn ào” rồi “lặng lẽ”. Phải chăng sóng đang yêu, yêu âm thầm, lặng lẽ? Vâng! Một tình cảm đang rạo rực trong trái tim người con gái, làm sao ai có thể “định nghĩa được tình yêu”. Một buổi chiều mộng? Một lần gặp gỡ? Một phút xao động trong tâm hồn? Người con gái hay chính nhân vật “Em” trong bài đang cố tìm câu giải đáp cho tình yêu, cho sự bâng khuâng, đối lập của lòng mình. Và rồi chỉ còn một lối thoát: con sóng phải tìm ra tận bể cũng như “Em” đi tìm nguồn gốc của tình yêu.

Tâm hồn con người là một cõi mênh mông vô tận. Làm sao ta có thể đi xuyên suốt hết cái cõi vô tận ấy. Và ngay chính trong lúc cõi lòng đang bùng lên ngọn lửa yêu thương thì cô gái trẻ lại càng trăn trở, bâng khuâng, khắc khoải, dằn vặt với chính lòng mình. Phải vượt khỏi cái giới hạn chật hẹp này, phải lao mình vào chân trời bao la, những miền vô tận để hiểu rõ lòng mình. Con sóng đã rời bờ ra đi, đi thật xa, cố tìm hiểu và soi mình với những con sóng khác để biết được sự huyền diệu của tình yêu, mà hiện tại đối với sóng vẫn còn là một bí mật. Tình yêu là gì ư? Một nhà thơ Pháp đã từng khẳng định: “tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi”. Và thế rồi con sóng vẫn đi tìm mãi, tìm mãi:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Tình yêu cũng như con sóng, vẫn vĩnh hằng với thời gian và tuổi trẻ. Xuân Diệu đã từng nói:

Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo

Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu

Tình yêu gắn liền với tuổi trẻ. Tuổi trẻ là trái tim dào dạt, đa cảm và rạo rực niềm yêu thương chất sống. Chính vì thế, mà cái khát vọng tình yêu cứ bồi hồi trong ngực trẻ, nó cứ thúc đẩy tuổi trẻ đi tìm chân lý yêu đương, cũng như con sóng “ngày xưa và ngày sau vẫn thế”.Tuy nhiên, câu thơ “bồi hồi trong ngực trẻ” là một câu thơ chưa chín.Thật ra ngực trẻ hay ngực già… đều nồng nàn và bồi hồi trước tình yêu. Song, sóng và em cứ tìm mãi mà chẳng hiểu mình, chẳng thể hiểu được tình yêu. Sóng chính là điển hình của sự nhận thức về cái “quy luật” không thể cắt nghĩa được tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

Sóng bắt đầu từ gió – Vâng! Gió bắt đầu từ đâu? Tình yêu bắt đầu từ đâu? –“Em”cũng không biết nữa. Đọc những câu thơ này, ta chợt hình dung cái lắc đầu nhè nhẹ như một sự bất lực của cô gái. Trong khi người con gái cố đi tìm cội nguồn tình yêu thì tình yêu trở thành trò chơi ú tim, không tài nào nắm bắt được. Và thế là, muôn đời tình yêu vẫn là sự bí hiểm. Tình yêu của “Em” giờ đây trở thành nỗi nhớ da diết, giày vò. Nó choáng đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bề rộng, nó trải dài trong mọi thời gian. Phạm Đình An đã nhận xét: “Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng lại ở mức độ yêu buổi đầu giản đơn hò hẹn, non nớt, ngọt ngào, mà là tình yêu hạnh phúc, tình yêu gắn bó với cuộc sống chung với nhiều đòi hỏi ở chiều sâu tình cảm, với nhiều chứng minh của thử thách, mang đậm dấu ấn trách nhiệm”. Chính vì thế mà tình yêu của người “Em”. Ở đây có thể nói không còn bồng bột mà khá chín chắn, có sự can thiệp của lý trí, có ý thức về mặt tình cảm. Ấy thế mà trong lòng người con gái vẫn trỗi dậy mãnh liệt một nỗi nhớ muôn hình, muôn sắc:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Nỗi nhớ của “Em”, của tình yêu dữ dội được khởi đầu từ những cái cao cả lớn lao, không tủn ngủn và tầm thường chút nào! Nỗi nhớ ấy da diết, cuốn lấy tâm hồn người con gái! Với Xuân Quỳnh là thế: mọi con sóng đều có bờ, mục đích là vỗ vào bờ, nên khi sóng xa bờ thì phải nhớ bờ, ngày đêm không ngủ được. Cũng như sóng, nỗi nhớ về “Anh” vẫn dào lên mãnh liệt:

Lòng em nhớ đến – Anh

Cả trong mơ còn thức

Tình yêu đến, tình yêu mang theo một nỗi nhớ vô bờ đến với “Em”, choáng ngợp tâm hồn “Em”. Tình yêu đã trở nên đậm đà đến thế, và nỗi nhớ lại càng da diết miên man. “Có không gian nào dài hơn chiều dài nỗi nhớ, có một khoảng mênh mông nào sâu thẳm hơn tình yêu…”. Vâng! Làm sao đo được nỗi nhớ, làm sao đo được tình yêu! “Em” vẫn nhớ đến “Anh”, chỉ nhớ về phương anh mà thôi:

Dẫu xuôi về phương

Bắc Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương

Tình yêu thật huyền diệu! Điều đáng nói là “Em” biết chủ động, biết gửi trao nỗi nhớ về hướng xác định: Phương anh! – Phương của tình yêu: “rợp trời thương ấy mấy màu xanh suốt, mà em nghiêng hết ấy mấy về phương anh, mà em nghiêng hết ấy mấy về phương anh…”. Tình yêu của người phụ nữ thật mãnh liệt nhưng cũng thật trong sáng, dung dị, một tình yêu thuỷ chung và trọn vẹn. Song, để toàn vẹn mối tình ấy, con sóng phải vượt qua muôn ngàn cách trở:

Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở

Con sóng muốn tới bờ, phải vượt qua bao giông tố, bão bùng. Em muốn hướng về anh, phải vượt qua bao cạm bẫy cuộc đời. Suy cho cùng, tình yêu phải cần thử thách tôi luyện mới thấy rõ giá trị thực sự của nó. Tình yêu muốn tồn tại cũng phải có sự ra đi và trở lại, phải có sự dồi lên, lắng xuống để cuối cùng trở về với tình yêu hồn nhiên thuở đầu. Chính tình yêu của anh đã giúp cho em vượt qua tất cả, đón nhận một tình yêu vĩnh cửu – tình yêu lớn lao và cao thượng, không mang màu sắc vị kỉ, riêng rẽ mà là hoà trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng sẽ tồn tại mãi mãi:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

Tình yêu sẽ trưởng thành đằm thắm hơn và sẽ vĩnh hằng trong cái đẹp của tạo hoá. Bài thơ kết thúc rồi mà nhịp điệu êm ái, nhẹ nhàng của tình yêu vẫn còn vướng đọng đâu đây. Bài thơ thành công không chỉ trong việc miêu tả hình tượng “Sóng” mà còn bộc lộ một tình yêu thật sôi nổi, nỗi khao khát tình yêu của một nhà thơ nữ. Đây chính là nét mới mẻ trong thơ ca hiện đại Việt nam. Trong rất nhiều loài hoa thì bông hoa Xuân Quỳnh toả ra một hương thơm riêng, một cách cảm nhận riêng về sóng – biển trong tình yêu. Tình yêu như con sóng mênh mang, vô tận, song cái đích cuối cùng cũng là một tình yêu thứ nhất, vĩnh hằng mãi mãi.

Tiếp tục đọc

Xu hướng