Connect with us

Sách hay

50 năm Hiệp định Paris – Mốc son lịch sử

Được phát hành

,

Sách trình bày bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và những bài học lớn từ Hiệp định Paris.

Theo bà Nguyễn Thị Bình, Nguyên phó Chủ tịch nước, cho rằng Hiệp định Paris là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, dẫn đến đại thắng mùa xuân năm 1975, thống nhất đất nước.

Đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Lễ ký kết Hiệp định Paris, ngày 27/01/1973
Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam.

Bài phỏng vấn nhân kỷ niệm 50 năm Hiệp định Paris về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973 – 27/1/2023), in trong sách 50 năm Hiệp định Paris – Mốc son lịch sử.

– Hiệp định Paris được ký kết ngày 27/1/1973 là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Với vai trò của người trong cuộc, xin bà chia sẻ về những dấu ấn nổi bật trong quá trình đàm phán?

Advertisement

– Trước hết cần khẳng định rằng Hiệp định Paris là thành quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ, lâu dài trong lịch sử ngoại giao Việt Nam với 4 năm, 8 tháng, 14 ngày. Trong gần 5 năm đàm phán đó, đoàn đàm phán của Việt Nam đã không bỏ lỡ bất kỳ một cơ hội nào để có thể đi đến một ký kết nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh đang diễn ra khốc liệt trên đất nước ta. Nhưng để chấm dứt chiến tranh không chỉ tùy thuộc ở ta, mà còn tùy thuộc vào đối phương, đặc biệt là cuộc chiến đấu trên chiến trường.

Trong suốt quá trình đàm phán, Bác Hồ và các đồng chí trong Bộ Chính trị đã có chủ trương rất đúng về ngoại giao. Trước hết là đã đánh giá được tình hình không chỉ trên chiến trường, về quân sự, chính trị, mà đánh giá cả tình hình thế giới. Từ đó, thấy rằng, trong ba năm đầu, từ năm 1969 đến năm 1971, trên chiến trường có sự giằng co giữa ta và địch; về mặt chính trị khi đó chúng ta mạnh hơn, nhưng về mặt quân sự thì ta với địch ở thế giằng co. Đến năm 1972, chúng ta ở thế chủ động trên chiến trường, mở nhiều chiến dịch trên khắp chiến trường miền Nam, đặc biệt ở Quảng Trị.

Ngược lại, Mỹ đàm phán muốn rút quân, nhưng phải rút trên thế mạnh. Do đó, Mỹ vẫn có nhiều hoạt động phá hoại miền Bắc, đánh phá miền Nam; ngăn chặn viện trợ của miền Bắc cho miền Nam, bắn phá tuyến đường Trường Sơn. Đỉnh điểm là đêm 18/12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon đã ra lệnh ném bom hủy diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng máy bay B.52. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm được ví là “Trận Điện Biên Phủ trên không” kết thúc bằng việc 34 pháo đài bay B.52 và hơn 40 máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi. Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội, đã đẩy Mỹ vào thế thua không thể gắng gượng nổi về mặt quân sự.

Trong khi đó, có một thuận lợi cho ta, đó là dư luận quốc tế, đặc biệt là phong trào phản chiến ở Mỹ, đã tạo áp lực cho Tổng thống Richard Nixon, đặt chính quyền Nixon vào thế phải chấm dứt chiến tranh.

Mặt khác, từ ba năm trước đó, chúng ta đã nêu ra hai yêu sách để đấu tranh với Mỹ, đó là: Mỹ rút quân hoàn toàn ra khỏi miền Nam; xóa bỏ chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Phải giải quyết hai vấn đề đó mới chấm dứt được chiến tranh. Tuy nhiên, trong tình hình chiến trường và quốc tế như vậy, trên bàn hội nghị, chúng ta chỉ tập trung vào việc Mỹ rút quân, còn vấn đề chính trị miền Nam thì do các bên Việt Nam tự giải quyết. Đây là lựa chọn khôn ngoan.

Advertisement

Vì thế, sau đó Nixon mới chịu đi vào đàm phán thực chất. Và cuối cùng, ngày 22/01/1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế Kléber, đúng 12 giờ 30 phút (giờ Paris), Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam đã được Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Cố vấn cấp cao Kissinger ký tắt. Ngày 27/01/973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký chính thức giữa Bộ trưởng Ngoại giao các bên.

Với Hiệp định này, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, rút khỏi Việt Nam và Đông Dương, chấm dứt dính líu quân sự, tạo thuận lợi cho cách mạng phát triển; chính quyền và quân đội Sài Gòn mất chỗ dựa về quân sự, bị suy yếu và lún sâu vào khủng hoảng chính trị. Đây là điều kiện thuận lợi cho ta tiến lên “đánh cho ngụy nhào”, giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân năm 1975.

– Thắng lợi của Việt Nam tại cuộc đàm phán Paris là minh chứng tập trung nhất về sự đúng đắn, tài tình của đường lối, sách lược của nền ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Xin bà chia sẻ về nhận định này?

– Đàm phán Hiệp định Paris có thể nói là cuộc đàm phán dài nhất để chấm dứt một cuộc chiến tranh cũng dài nhất trong thế kỷ XX. Là cuộc đối thoại giữa hai thế lực đối đầu trên chiến trường, một bên là lực lượng xâm lược của một đế quốc đầu sỏ và bè lũ tay sai, có thế mạnh vượt trội về quân sự và kinh tế; một bên là lực lượng chống xâm lược và bảo vệ Tổ quốc, yếu về quân sự và kinh tế nhưng lại có sức mạnh của chính nghĩa. Và đây còn là tâm điểm cuộc đối chọi giữa hai nền ngoại giao, một bên là nền ngoại giao nhà nghề của một siêu cường đã tồn tại trên 200 năm, với một bên là nền ngoại giao của một nhà nước cách mạng còn non trẻ.

Như chúng ta biết, nước Mỹ có nền ngoại giao lâu năm, bộ máy ngoại giao lớn, quan hệ quốc tế rộng và có kinh nghiệm xử lý các vấn đề quốc tế với nhiều đối tượng khác. Các nhà đàm phán Mỹ như Harriman, Cabot Lodge, Henry Kissinger là những nhà ngoại giao sắc sảo, nhiều thủ thuật. Hơn nữa, đàm phán là thương lượng giữa hai hay nhiều bên bình đẳng. Bởi vậy, trong quá trình đàm phán với Mỹ, giữ được thế chủ động, kiên trì mục tiêu đề ra là mối quan tâm lớn của ta trong nghệ thuật đàm phán. Để tranh thủ thế chủ động trong đàm phán, ta vận dụng tư tưởng đánh lâu dài, không chịu sức ép nào, kiên trì đấu tranh, lại biết xoáy vào thế yếu của đối phương là Mỹ bị sa lầy ở Việt Nam và lại chịu nhiều sức ép… nên phải tìm cách kết thúc sớm chiến tranh, để tranh thủ thế chủ động trong đàm phán.

Advertisement

Sự phối hợp giữa đàm phán với chiến tranh quân sự đưa đến thành công rõ rệt nhất là góp phần giành thắng lợi từng bước, buộc địch phải xuống thang từng bước, làm thay đổi dần so sánh lực lượng và thế trận trên chiến trường. Từ năm 1969, bước vào Hội nghị bốn bên, chúng ta thực hiện Chỉ thị của Trung ương là: “Đẩy địch xuống thang một bước trên chiến trường chính, ép Mỹ đơn phương rút một bộ phận quân Mỹ”.

Sức mạnh tổng hợp của ta cùng phong trào phản chiến đang dâng cao ở Mỹ đã buộc chính quyền Mỹ phải rút trên 400.000 quân Mỹ trong 3 năm, tạo thuận lợi quan trọng cho chiến trường. Mỹ rút quân hòng chuyển sức ép sang phía ta, nhưng đàm phán đã góp phần tiếp tục tạo sức ép đòi Mỹ rút nhanh, rút hết. Đàm phán hỗ trợ đấu tranh quân sự đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Nixon, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris rút hết quân Mỹ. Đây là bước “xuống thang” lớn nhất của Mỹ, là thắng lợi cao nhất của ta trong đàm phán phối hợp với chiến trường.

Có thể nói, ta giành được thế chủ động trong đàm phán vì đã chủ động trong điều hành cục diện cuộc chiến, ta biết phát động và biết kết thúc đấu tranh theo mưu lược của ta. Mặt khác, đi vào đàm phán, ta nắm chắc chiến trường, nội bộ Mỹ và xu thế quốc tế để tính toán cung cách và bước đi chặt chẽ, giữ vững quyền chủ động trong quá trình thương lượng.

Chúng ta phối hợp chặt chẽ giữa ngoại giao – đàm phán với đấu tranh quân sự là có sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lấy tình thế và yêu cầu của chiến trường làm cơ sở, kết hợp xem xét tình hình và dư luận quốc tế cùng tình hình nội bộ Mỹ để quyết định bước đi và biện pháp ngoại giao tối ưu nhất. Và nhờ đó, chúng ta đã giành được thắng lợi bằng việc ký kết Hiệp định Paris, tạo điều kiện thuận lợi tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

– Với vai trò là Trưởng đoàn đàm phán, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị bốn bên tại Paris, bà nổi tiếng với phong cách ngoại giao bản lĩnh và khéo léo, được giới truyền thông đặt cho biệt hiệu “Madame Bình”. Bà có thể bình luận thêm về nhận định này?

Advertisement

– Năm 1968, tôi đảm nhận vai trò Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, là người phụ nữ duy nhất đại diện cho Việt Nam tham gia Hội nghị bốn bên về hòa bình tại Paris từ năm 1968 đến năm 1973 và cùng ký tên vào bản Hiệp định ngày 27/01/1973. Đó là cả một khoảng thời gian khó khăn, áp lực, căng thẳng đối với cá nhân tôi và các thành viên tham gia đoàn đàm phán. Song, đó cũng là khoảng thời gian mà tôi học hỏi, tích lũy được nhiều bài học về công tác ngoại giao, mà tôi cho rằng những bài học đó cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.

Trước hết, đó là bài học phải giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, phải xuất phát từ lợi ích quốc gia, phải biết rõ lực lượng mình như thế nào, đối phương ra sao để quyết định từng bước đi và luôn luôn có sự kết hợp giữa chiến trường và trên mặt trận ngoại giao – bài học về độc lập, tự chủ.

Thứ hai, là phải kiên định đối với lập trường, nguyên tắc và mục tiêu chiến lược của mình, nhưng trong sách lược phải biết mềm dẻo.

Thứ ba, là biết kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế nhưng phải dựa vào sức mình là chính. Những bài học lớn mang tính nguyên tắc này chúng ta có thể vận dụng trong việc xây dựng đường lối đối ngoại của ta trong giai đoạn hiện nay cũng như mai sau.

Còn đi vào cụ thể, chúng ta sẽ có được những bài học cụ thể, ví dụ khi đi vào đấu tranh trong từng phiên họp, trên các vấn đề lớn, ta cũng phải biết cách gạt các mũi tấn công, các đòn gây sức ép của đối phương bằng những lý lẽ, lập luận sắc bén, các cách ứng xử quyết liệt. Thực tế, trong quá trình đàm phán, không phiên họp nào mà phía Mỹ không đề cập vấn đề “rút quân miền Bắc”; họ xoáy vào vấn đề này nhằm đánh lừa dư luận, gây khó khăn cho ta. Ta một mặt khẳng định: “Thực hiện quyền dân tộc tự vệ thiêng liêng, mọi người Việt Nam đều có quyền chiến đấu trên bất kỳ mảnh đất nào của Tổ quốc mình”.

Advertisement

Mặt khác, ta đưa ra phương thức “Vấn đề lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam sẽ do các bên Việt Nam giải quyết”. Lập trường này đã được đưa thành một điều khoản (Điều 13) của Hiệp định Paris. Hay như trên vừa nói, thời Nixon, Mỹ mấy lần cho ném bom lại một số nơi ở miền Bắc để gây sức ép, khiến không khí đàm phán căng thẳng. Đoàn đàm phán ta đến phiên họp đọc bản tuyên bố lên án Mỹ rồi bỏ họp mà không để đối phương kịp phản ứng. Chủ động bỏ họp như vậy cũng là một cách tấn công gây tác động mạnh trong dư luận.

Hoặc trong tiến trình đàm phán, chúng ta cũng cần khôn khéo trong việc trả lời phỏng vấn của báo chí nước ngoài. Tôi còn nhớ trong một buổi trả lời phỏng vấn, có nhà báo hỏi: “Có quân đội miền Bắc ở miền Nam không?”. Tôi đã cương quyết, khéo léo trả lời: “Dân tộc Việt Nam là một, người Việt Nam ở Bắc cũng như ở Nam đều có nghĩa vụ chiến đấu chống xâm lược”. Có nhà báo lại hỏi: “Vùng giải phóng ở đâu?”. Tôi trả lời: “Nơi nào Mỹ ném bom, bắn phá thì đó chính là vùng giải phóng của chúng tôi. Nếu không tại sao Mỹ lại phải ném bom?”…

Việc trả lời những câu hỏi của báo chí cũng chính là một kênh thể hiện quan điểm, lập trường của phía ta trong tiến trình đám phán đi đến ký kết Hiệp định, cũng như chủ trương, đường lối cách mạng của Đảng và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là những chi tiết rất nhỏ, nhưng những người làm công tác ngoại giao cần phải đặc biệt chú trọng.

Hội nghị Paris đã khép lại cách đây 50 năm với nhiều bài học kinh nghiệm và giá trị lịch sử to lớn; là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam; tôi tin rằng, những người làm công tác ngoại giao hôm nay sẽ vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm quý báu đó trong tiến trình đất nước hội nhập quốc tế, sánh vai với các cường quốc năm châu, ngày càng lớn mạnh, phồn vinh.

Nguồn: https://zingnews.vn/hiep-dinh-paris-la-thang-loi-co-y-nghia-chien-luoc-post1397029.html

Advertisement

Tiếp tục đọc
Quảng cáo
Nhấn vào đây để bình luận

Leave a Reply

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.

Sách hay

8 cuốn sách tác giả hối tiếc khi viết ra

Được phát hành

,

Bởi

Trang “Book Riot” đã chia sẻ về 8 cuốn sách khiến các tác giả hối tiếc sau khi được xuất bản, thậm chí vì chúng quá nổi tiếng.

tieu thuyet co tac dong anh 1

Alice’s Adventures in Wonderland của Lewis Carroll. Cuộc phiêu lưu của Alice ở xứ sở thần tiên là một trong những cuốn sách thiếu nhi có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Tuy nhiên, vào năm 2014, một lá thư của Charles Dodgson (tên thật của tác giả Carroll) đã được phát hiện và tiết lộ nhiều điều về cuốn sách này. Trong đó, ông ghét việc bị chú ý sau khi cuốn sách này thành công rực rỡ. Dodgson thừa nhận: “Tôi ghét tất cả sự chú ý đó đến mức đôi khi tôi gần như ước mình chưa bao giờ viết bất kỳ cuốn sách nào”. Ông cũng chỉ gửi đi những câu trả lời ngắn gọn và tức giận cho những người gửi thư tới bút danh của ông.

tieu thuyet co tac dong anh 2

Cuốn Boating for Beginners của Jeanette Winterson. Là một tác giả có nhiều tác phẩm nổi tiếng nhưng cuốn Boating for Beginners của bà ít được biết hơn. Một phần là do chính cá nhân Winterson có mâu thuẫn đối với tác phẩm này. Dù không ghét cuốn sách này, Winterson đã thẳng thắn về lý do xuất bản Boating For Beginners: Cần tiền nên viết cuốn sách một cách nhanh chóng. Ra mắt chỉ 3 tháng sau tác phẩm đầu tay Oranges are Not the Only Fruit, Boating for Beginners là một câu chuyện rất khác và chỉ mang tính giải trí nhẹ nhàng. May mắn thay, những cuốn sách sau đó khá thành công và lấy lại được danh tiếng cho bà. Gần đây nhất là vào năm 2019, cuốn sách Frankissstein của bà đã lọt vào danh sách rút gọn của Giải thưởng Booker.

tieu thuyet co tac dong anh 3

Cuốn The Wind From Nowhere của J.G. Ballard. Trong khi Winterson hối tiếc về cuốn sách thứ hai của bà thì J.G. Ballard lại hối tiếc về cuốn sách đầu tiên của mình đến mức ông thường giả vờ tác phẩm đầu tay là The Drowned World. Trên thực tế, The Wind From Nowhere được viết và xuất bản trước nhưng Ballard thừa nhận trong các cuộc phỏng vấn rằng ông viết cuốn sách này chỉ để kiếm tiền và không thực sự thích nó. Tác phẩm này được hoàn thành trong 10 ngày và Ballard cảm thấy nó sáo rỗng không khác gì việc đi cóp nhặt.

tieu thuyet co tac dong anh 4

Orlando The Marmalade Cat của Kathleen Hale. Cho tới nay, Orlando the Marmalade Cat vẫn luôn là một phần thân yêu trong tuổi thơ của nhiều độc giả. Những cuộc phiêu lưu của Orlando đã được xuất bản và tái bản trong hơn 4 thập kỷ, từ những năm 1930 đến những năm 1970. Là sản phẩm trí tuệ của nghệ sĩ Kathleen Hale, cuốn sách này được viết để giải trí cho hai đứa con nhỏ của bà. Mặc dù tận hưởng thành công của loạt sách này, Hale “cảm thấy Orlando đã cướp mất sự nghiệp họa sĩ của bà” – công việc mà bà đã theo đuổi từ những năm 20 tuổi.

tieu thuyet co tac dong anh 5

Winnie the Pooh của A. A. Milne. Công chúng đều biết rằng nhân vật Christopher Robin ngoài đời thực, con trai của tác giả A. A. Milne, đã có nhiều cảm xúc cực đoan với sự hiện diện của mình trong tác phẩm. Khi ở tuổi thiếu niên, Christopher Robin hay bị bạn bè trêu chọc vì những câu chuyện “trẻ con” nên cậu bé liền cảm thấy khó chịu với “sự nổi tiếng bất đắc dĩ” này. Việc con trai không còn thích tác phẩm này đã khiến quan hệ giữa 2 cha con trở nên căng thẳng. Thêm vào đó, Milne cũng buồn lòng vì độc giả quá chú ý vào Winnie the Pooh mà không coi trọng tác phẩm nào khác của ông, chẳng hạn các vở kịch và nhiều tác phẩm phi hư cấu khác.

tieu thuyet co tac dong anh 6

Survivor của Octavia E. Butler. Octavia E. Butler là một nhà văn viễn tưởng có ảnh hưởng, với nhiều tác phẩm như FledglingLilith’s Brood. Survivor được xuất bản năm 1978, nằm trong loạt truyện Patternist của bà. Tác phẩm không được quảng bá nhiều vì Butler không thích cuốn tiểu thuyết này. Bà cho rằng “cuốn sách thực sự gây khó chịu” vì nó mang âm hưởng của chủ nghĩa thực dân khi kể lại câu chuyện con người du hành đến hành tinh khác và tương tác với “người bản địa” mà họ tìm thấy ở đó.

tieu thuyet co tac dong anh 7

The Anarchist Cookbook của William Powell. Trong trường hợp này, tác giả Powell đã hối tiếc vì tác phẩm của ông có tác động lớn và tiêu cực đến thế giới. Anarchist Cookbook được nhiều kẻ khủng bố và các nhân vật bạo lực rất ưa chuộng. Lý do là cuốn sách này có hướng dẫn cách chế tạo chất nổ, vũ khí và ma túy bất hợp pháp, cùng nhiều thứ khác. Powell thường xuyên nói về việc quan điểm của ông đã thay đổi ra sao kể từ khi ông viết cuốn sách này. Càng về sau, ông càng muốn cuốn sách này “nhanh chóng và lặng lẽ bị dừng in”. Tuy nhiên, do không giữ bản quyền nên ông đã không thành công.

tieu thuyet co tac dong anh 8

Jaws Của Peter Benchley. Đây là một tác phẩm ăn khách và phiên bản điện ảnh của nó cũng rất hút khách. Tuy nhiên, Jaws gây nhiều hệ lụy đến thế giới thực. Tác phẩm này đã tạo ra một nhận thức sai lầm trong cộng đồng rằng cá mập là những kẻ giết người nguy hiểm và luôn muốn tấn công con người. Trong khi thực tế, các cuộc tấn công của cá mập là rất hiếm và chúng đôi khi cũng là những sinh vật thân thiện và tình cảm. Benchley rất buồn trước việc Jaws đã thúc đẩy hành động cho phép săn cá mập hợp pháp và trong phần đời còn lại của mình, ông đã nỗ lực để bảo vệ loài động vật này. Ảnh: Amazon.

Nguồn: https://zingnews.vn/8-cuon-sach-tac-gia-hoi-tiec-khi-viet-ra-post1414328.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Những phản diện manga có điểm chung với Voldemort

Được phát hành

,

Bởi

Dù thuộc phe phản diện hay chính diện, khi có chung lý tưởng, đam mê và sở thích, sẽ không mất quá nhiều thời gian để hai nhân vật thân thiết với nhau.

voldemort anh 1

Với một kẻ đầy tham vọng và đặc biệt nguy hiểm như Voldemort, hắn có thể là nỗi ám ảnh của cả thế giới nhưng cũng có thể là tri kỷ của nhiều nhân vật phản diện khác. Đặt trong thế giới truyện tranh, những kẻ xấu dưới đây có thể sẽ tìm được nhiều điểm chung. Ảnh: TheArtifice.

voldemort anh 2

Bộ truyện Harry Potter của J.K. Rowling đã tạo nên một thế giới phù thủy đậm chất kỳ ảo và tinh tế. Tương tự, Akira Toriyama cũng đã làm nên một tượng đài của thế giới truyện tranh với Dragon Ball Z. Trong đó, Frieza nổi bật lên như một trong những ác nhân toàn diện nhất với sức mạnh bá đạo, mưu mô cùng tham vọng cũng ở tầm vóc vũ trụ. Hắn sẵn sàng làm mọi việc để đạt được mục đích thống trị vũ trụ 7 của mình. Thậm chí, nụ cười của Frieza được nhiều bạn đọc đánh giá cao khi vừa thể hiện được thái độ cao ngạo, vừa làm nổi bật thêm nét gian trá, xảo quyệt của nhân vật phản diện này. Giống Voldemort, Frieza cũng có cả một đội quân hùng mạnh dưới quyền luôn sẵn sàng thực hiện mọi mệnh lệnh được giao. Đặc biệt, xét về độ tàn nhẫn, hai nhân vật này đều được xếp hàng đầu. Ảnh: CBR.

voldemort anh 3

Thủ lĩnh của Liên minh tội phạm trong bộ truyện tranh My Hero Academia, All For One, là nhân vật phản diện chính xuyên suốt tác phẩm. Không có gì phải nghi ngờ về tham vọng xấu xa của All For One khi hắn muốn cả thế giới phải cúi đầu trước mình. Bị All Might đánh bại hai lần và giam cầm ở Tartarus, hắn không bỏ cuộc và vẫn quyết tâm đạt được mục tiêu trên. Điểm giống nhau giữa All For One và Voldemort là nỗi sợ hãi đến ám ảnh mà chúng gây ra cho những người xung quanh. Ảnh: CBR.

voldemort anh 4

Không khó để có thể nhận ra khát vọng mà cả Orochimaru (trong bộ manga Naruto) và Voldemort cùng hướng tới, đó là sự bất tử. Cả hai đều bị ám ảnh bởi cái chết, mong mỏi mãnh liệt đối với khái niệm trường sinh và luôn cố gắng thử nghiệm mọi khả năng để có cơ hội chạm vào khát vọng ấy. Đối với Orochimaru, xuất thân là phản diện chính của một arc truyện nhưng dần dần hắn lại chuyển dịch vai trò của mình. Trong khi đó, Voldemort luôn được tác giả giữ vững bản chất. Trận chiến cuối cùng của hắn với Potter cũng là chiến thắng chung cho cả bộ tiểu thuyết. Biết đâu đó, nếu tồn tại trong cùng một vũ trụ, hai nhân vật này sẽ “cao hứng” đến thế nào khi biết vẫn có người cùng đam mê về sự bất tử giống mình. Ảnh: CBR.

voldemort anh 5

Các “đồng minh tiềm năng” của Voldemort đã có mặt trong Dragon Ball, Naruto; đối với One Piece, kẻ phản diện có nhiều nét giống với ác nhân trong Harry Potter nhất có lẽ là Râu Đen – thuyền trưởng băng hải tặc cùng tên. Càng về cuối truyện, tầm ảnh hưởng của Râu Đen càng lớn. Và dĩ nhiên, hắn cùng Voldemort sẽ rất hợp nhau trong tham vọng thống trị thế giới của mình. Ảnh: CBR.

voldemort anh 6

Là bộ manga có nhiều độc giả trung thành, Fullmetal Alchemist là hành trình của hai anh em nhà Elric đi tìm kiếm phương pháp giúp Alphonse trở lại hình dạng con người của mình. Trên con đường đầy gian khổ đó, họ phải đối đầu với Father – là Homunculus đầu tiên và là người tạo ra những kẻ khác. Hắn sẵn sàng xóa sổ cả một quốc gia với hàng triệu người vô tội chỉ để tăng cường sức mạnh hay thậm chí xuống tay hạ sát cả những kẻ thân tín nhất vì mục đích riêng. Chỉ vậy thôi cũng đủ nói lên sự “tương xứng” giữa Father và Voldemort. Ảnh: CBR.

voldemort anh 7

Trong Hunter X Hunter, Hisoka Morow là một trong những nhân vật phản diện nổi tiếng và được yêu thích nhất. Nhưng nhìn ở góc độ khác, đó cũng là người tàn nhẫn, ích kỷ và luôn coi mình là trung tâm. Phương diện tính cách này cũng không chênh so với Voldemort là mấy. Hắn luôn muốn mình nắm giữ vị trí độc tôn và thống trị phần còn lại của thế giới. Cả hai nhân vật đều tạo ra ảnh hưởng khổng lồ đến tác phẩm của bản thân và ghi dấu ấn lớn trong lòng độc giả. Ảnh: CBR.

Nguồn: https://zingnews.vn/nhung-phan-dien-manga-co-the-lam-ban-than-cua-voldemort-post1413950.html

Advertisement
Tiếp tục đọc

Sách hay

Cách người nước ngoài nhìn về văn hóa Việt Nam thông qua giao thông

Được phát hành

,

Bởi

Qua “Du hành về Nam”, tác giả người Bỉ Jean Pierre Outers mượn những hình ảnh, đặc điểm về giao thông Việt Nam để bàn về văn hóa Việt.

van hoa Viet Nam anh 1

Hình minh họa: Việt Linh.

“Trong tiếng Việt, đường phố được gọi là con phố, từ ‘con’ là loại từ thường được dùng với danh từ chỉ các sinh vật động, cũng giống con người và động vật (một con đường, con người), trong khi ở tiếng Pháp “phố” thuộc về thế giới vô tri vô giác của sự vật, như cái chổi hay cái đinh”, trích Du hành về Nam.

Thông qua những quan sát về con người, sự vật trên những nẻo đường Việt Nam, Jean Pierre Outers tìm cách định nghĩa những bản sắc in hằn nơi đây. Những sắc màu văn hóa được hình thành qua hàng nghìn năm lịch sử, tạo nên một bản sắc độc đáo của Việt Nam.

Sáng 21/3, trong buổi giao lưu giới thiệu tác phẩm tại Đại học Ngoại ngữ (Đại học quốc gia Hà Nội), tác giả Jean Pierre Outers đã có những chia sẻ thú vị xoay quanh bản sắc văn hóa và cách đặc tính giao thông có thể kể câu chuyện văn hóa của quốc gia đó.

Advertisement
van hoa Viet Nam anh 2

Tác giả Jean Pierre Outers tại Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: MH.

Theo ông, người nước ngoài tới Việt Nam đầu tiên sẽ luôn thấy kinh ngạc với giao thông Việt Nam. Ông nói: “Giao thông Việt Nam rất khác với giao thông ở Pháp nói riêng và ở châu Âu nói chung. Đường phố luôn có rất nhiều người, nhiều loại phương tiện giao thông: xe máy, ôtô, xe đạp… một hình ảnh rất lạ lẫm, sống động”.

Jean Pierre Outers cho biết ông viết Du hành về Nam trước tiên là cho chính ông, như một nỗ lực để hiểu về Việt Nam. Với cách tiếp cận đậm tính cá nhân như vậy, tác giả chọn góc nhìn mà ông thấy thú vị và độc đáo nhất – giao thông Việt Nam.

Tác giả người Bỉ chia sẻ: “Tôi nghĩ rằng giao thông của mỗi nơi luôn phản ánh được nền văn hóa ở đó”.

Dù vậy, Du hành về Nam không chỉ tập trung kể chuyện giao thông, đường phố Việt Nam. Theo Jean Pierre Outers, giao thông chỉ là một kiểu “ẩn dụ”, qua đó, ông bàn về sự giao thoa văn hóa tại Việt Nam.

van hoa Viet Nam anh 3

Sách Du hành về Nam của Jean Pierre Outers. Ảnh: CVN/LeCourrier.

Đã sống ở Việt Nam một thời gian dài, Jean Pierre Outers cảm nhận được một mạch giao thoa giữa văn hóa Á Đông và văn hóa châu Âu tại đây.

Advertisement

Ông nhận định rằng giao thông Việt Nam chứng tỏ một sự táo bạo, một năng lượng khó kiểm soát của một thế hệ ưa khám phá tự do phóng khoáng và thích thay đổi.

Giao thông Việt Nam có sự chằng chịt, tầng tầng lớp lớp các dòng chảy “cuộn lại, trải ra và thâm nhập vào nhau một cách trực diện”. Trong đó, Jean Pierre Outers nhìn ra một sự pha trộn của nhiều thời đại, nhiều dấu ấn văn hóa ngoại lai còn sót lại từ quá khứ.

Theo ông, Việt Nam tiếp thu những gì đi qua, nhào trộn chúng, trước khi Việt hóa và tạo ra một bản sắc riêng biệt của Việt Nam. Qua cái nhìn của tác giả người Bỉ, bức tranh đô thị Việt Nam hiện lên hài hòa nhưng cũng dữ dội, hỗn độn các nét vẽ. Đó là hình ảnh của một thành phố đang trên đà phát triển chóng mặt.

TS Văn học Trần Hoài Anh, Giảng viên tại Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Pháp, Đại học Ngoại ngữ – Đại học Quốc gia Hà Nội, nhận xét Du hành về Nam là một tác phẩm hay và xác đáng về văn hóa Việt Nam. Bà nói: “Tác giả có cái nhìn chân thực về văn hóa từ một góc nhìn mới lạ – phương tiện giao thông. Nếu không đọc tác phẩm gốc thì người đọc sẽ nhầm ông là người Việt Nam”.

Jean Pierre Outers đến Việt Nam cuối năm 1994, từng làm việc tại Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Hà Nội, sau đó công tác tại Phái đoàn Wallonie – Bruxelles (Bỉ). Ông đã xuất bản một số ấn phẩm viết về văn hóa, trong đó có tác phẩm du ký Passer au Sud (Du hành về Nam) bàn về sự giao thoa văn hóa tại Việt Nam thông qua cái nhìn vào tình hình giao thông nơi đây.

Advertisement

Nguồn: https://zingnews.vn/cach-nguoi-nuoc-ngoai-nhin-ve-van-hoa-viet-nam-thong-qua-giao-thong-post1413931.html

Tiếp tục đọc

Xu hướng